Giới thiệu chung

Ngày 25/4/1976 là cuộc tổng tuyển cử đầu tiên sau khi đất nước thống nhất.
Ngày đăng 25/04/2025 | 07:03  | Lượt truy cập: 1

Cách đây 49 năm, ngày 25/4/1976, cử tri cả nước nô nức đi bỏ phiếu bầu những đại biểu xứng đáng vào cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam độc lập, thống nhất. Đây là bằng chứng về sức mạnh đoàn kết của nhân dân ta, quyết tâm đánh và đánh thắng mọi thế lực phá hoại nền độc lập, tự do mà ông cha ta đã nhiều năm vun đắp.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta toàn thắng, miền Nam hoàn toàn giải phóng. Dù non sông đã thu về một mối nhưng ở hai miền vẫn tồn tại hai nhà nước. Vì vậy, Đảng ta đã sớm nhận thức được yêu cầu, nhiệm vụ cấp bách đặt ra lúc đó là phải hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước.

Ngày 03/01/1976, Bộ Chính trị đã có Chỉ thị số 228-CT/TW, trong đó đã xác định rõ những nguyên tắc của cuộc bầu cử. Chỉ thị nêu rõ cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội thống nhất “sẽ được tiến hành trong cả nước cùng một ngày, theo những nguyên tắc thật sự dân chủ: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.

Ngày 25/4/1976, trong không khí ngày hội lớn của đất nước, trên 23 triệu cử tri trên cả nước đã nô nức làm nghĩa vụ công dân của mình bầu những đại biểu xứng đáng vào cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam độc lập, thống nhất. Kết quả, tỷ lệ cử tri đi bầu trong cả nước đạt 98,77%, trong đó miền Bắc đạt 99,36%, miền Nam là 98,59%. Cử tri đã lựa chọn và bầu 492 đại biểu Quốc hội gồm đủ các thành phần công nhân, nông dân, trí thức, lực lượng vũ trang, đại biểu các tầng lớp thanh niên, phụ nữ, đại biểu các dân tộc thiểu số và các tôn giáo.

Như vậy, kể từ cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội khóa I (06/01/1946), sau 30 năm, cuộc Tổng tuyển cử chung lại được tổ chức trên phạm vi cả nước. Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất có ý nghĩa rất quan trọng, là một trong những mốc son trong lịch sử cách mạng Việt Nam.

Cuộc Tổng tuyển cử năm 1976 cũng phản ánh ý chí, nguyện vọng, độc lập, thống nhất của cả dân tộc Việt Nam sau 30 năm chiến tranh giải phóng đất nước. Bởi chỉ chưa đầy một năm sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, chúng ta đã tiến hành cuộc tổng tuyển cử. Đồng thời, cũng phản ánh giác ngộ chính trị, bản lĩnh chính trị, ý chí của dân tộc Việt Nam, đặc biệt ở miền Nam, đồng bào rất hăng hái đi bầu cử, lựa chọn đại biểu xứng đáng đại diện cho mình vào Quốc hội của một nước Việt Nam thống nhất.

Khẳng định đây là cuộc bầu cử Quốc hội khóa VI, đảm bảo tính hợp Hiến, hợp pháp, tính liên tục của Nhà nước cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Cụ thể: Từ cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên năm 1946 (khóa I), năm  1960 (khóa II), năm 1964 (khóa III), năm 1971 (khóa IV), năm 1975 (khóa V).

Cuộc tổng tuyển cử năm 1976 mở ra thời kỳ mới của sự phát triển đất nước và dân tộc Việt Nam, đó là thời kỳ cả nước có một Nhà nước thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả nước cùng đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội và phấn đấu cho mục tiêu vừa độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tự hào tháng Tư lịch sử
Ngày đăng 24/04/2025 | 02:04  | Lượt truy cập: 24

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước là một mốc son vàng chói lọi trong dòng chảy của lịch sử dân tộc, là tiếng vang của khát vọng tự do, biểu tượng của sự kiên cường, bất khuất trong cuộc đấu tranh giành độc lập.

Năm 2025, kỷ niệm 50 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025). Khi cờ đỏ sao vàng tung bay trong gió, khi tiếng trống hội ngân vang khắp nơi, đó là lúc chúng ta cùng nhau hòa vào niềm vui, niềm tự hào của một dân tộc thống nhất.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta là cuộc chiến tranh vô cùng khốc liệt với nhiều hy sinh, mất mát nhưng vẻ vang, oanh liệt nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, được kết thúc bằng chiến thắng lịch sử vào ngày 30/4/1975.

Đó là thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng và chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước mấy ngàn năm của dân tộc Việt Nam.Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta là cuộc chiến tranh vô cùng khốc liệt với nhiều hy sinh, mất mát nhưng vẻ vang, oanh liệt nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.

Trải qua nhiều giai đoạn phát triển, với những bước chuyển biến về tương quan lực lượng, cục diện chiến tranh để đến giai đoạn cuối cuộc kháng chiến đã tạo bước nhảy vọt lớn, đi đến giành thắng lợi hoàn toàn. Đặc biệt khi Đế quốc Mỹ thi hành chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, từng bước mở rộng chiến tranh sang Campuchia, Lào. Thủ đoạn xảo quyệt của Mỹ là thực hiện chiến tranh hủy diệt và chiến tranh giành dân, chiến tranh bóp nghẹt để làm suy yếu cuộc kháng chiến của nhân dân ta trên cả hai miền Nam - Bắc. Quân và dân ta phối hợp với quân, dân hai nước Lào, Campuchia đánh bại một bước quan trọng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Những thắng lợi của chiến tranh cách mạng ba nước Đông Dương trong hai năm 1970 - 1971 đã tạo thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Nhờ chuẩn bị tốt lực lượng, nắm đúng thời cơ, quân và dân ta đã liên tiếp giành thắng lợi lớn trên chiến trường, nhất là cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai ra miền Bắc, nổi bật là đánh thắng cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 của Mỹ (Điện Biên Phủ trên không), làm thay đổi cục diện chiến trường, cục diện chiến tranh. Trong đàm phán, chúng ta cũng khôn khéo tiến công địch, phối hợp chặt chẽ giữa “đánh và đàm”, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari. Vào năm 1973, sau khi ký Hiệp định Pari, mặc dù buộc phải rút hết quân nhưng đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục âm mưu dùng Ngụy quân, Ngụy quyền làm công cụ để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới. Mỹ tăng cường tiền của, vũ khí, phương tiện chiến tranh cho quân Ngụy lấn đất, giành dân, khống chế nhân dân, thực hiện các hoạt động ngoại giao xảo quyệt để ngăn chặn sự phát triển của cách mạng miền Nam. Đến tháng 5/1973, xu thế chống phá Hiệp định Pari của địch ngày càng tăng. Chúng điên cuồng đánh phá hòng xóa bỏ vùng giải phóng của ta, đẩy lùi lực lượng cách mạng. Tuy nhiên sau chiến thắng 75 lượt tiểu đoàn địch của quân và dân khu 9, tháng 7/1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 đã khẳng định con đường cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực và đề ra các nhiệm vụ lớn cho hai miền Nam - Bắc. Cuộc chiến tranh của quân và dân ta ở miền Nam ngày càng mạnh lên, Ngụy ngày càng suy yếu rõ rệt. Nước Mỹ lâm vào khủng hoảng nội bộ. Tháng 7/1974, Đảng ta chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu quân đội nhân dân Việt Nam xây dựng kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976, nếu thời cơ đến sẽ giải phóng miền Nam trong năm 1975. Thắng lợi toàn miền, nhất là của miền Đông Nam bộ, đặc biệt là chiến thắng toàn tỉnh Phước Long cuối năm 1974 - đầu năm 1975 càng cho thấy thực tế suy yếu của quân ngụy Sài Gòn và khả năng Mỹ khó quay lại Việt Nam. Đảng ta nhận định thời cơ giải phóng miền Nam đã đến. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 bắt đầu từ ngày 4/3 bằng ba đòn chiến lược: Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng trận đột phá đánh chiếm Buôn Ma Thuột, giải phóng Tây Nguyên; chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng Sài Gòn - Gia Định kết thúc vào ngày 30/4/1975. Qua gần 2 tháng chiến đấu với sức mạnh áp đảo về chính trị và quân sự, quân và dân ta đã giành được toàn thắng, kết thúc 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược bằng chiến thắng lịch sử vào mùa xuân năm 1975.

Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng và chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước mấy ngàn năm của dân tộc. Nhân dân ta đánh thắng kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất của loài người tiến bộ; kết thúc oanh liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập tự do, thống nhất cho Tổ quốc; chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; đánh dấu bước ngoặt quyết định trong lịch sử dân tộc, đưa Tổ quốc ta bước vào kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Đối với thế giới, thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới; góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập dân tộc, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động viên các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc; mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên toàn thế giới.

Kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2025) là một sự kiện chính trị quan trọng của dân tộc Việt Nam. Đây cũng là dịp để chúng ta nhìn lại chặng đường chiến đấu đã qua, tự hào về truyền thống vẻ vang của một dân tộc anh hùng. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới của đất nước, chúng ta mãi mãi tự hào và biết ơn sự hy sinh to lớn của các thế hệ cha ông ta đã chiến đấu anh dũng, hy sinh vì độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc. Chúng ta càng tự hào, tin tưởng hơn vào sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, vào tinh thần yêu nước quật cường, bất khuất, trí thông minh, sáng tạo của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thần thánh của dân tộc Việt Nam.

UB.MTTQ Việt Nam xã Hiền Ninh tổ chức hội nghị triển khai vận động ủng hộ quỹ “Vì biển, đảo Việt Nam” năm 2025 và triển khai bầu thành viên Ban Thanh tra nhân dân nhiệm kỳ 2025 - 2027
Ngày đăng 22/04/2025 | 09:19  | Lượt truy cập: 33

Chiều 22/4, Ủy ban MTTQ Việt Nam xã Hiền Ninh tổ chức hội nghị triển khai phát động và ra lời kêu gọi ủng hộ Quỹ “Vì biển, đảo Việt Nam” năm 2025 và triển khai bầu thành viên Ban Thanh tra nhân dân nhiệm kỳ 2025 – 2027

Dự hội nghị có Đồng chí Nguyễn Công Khanh – Phó Bí thư thường trực Đảng ủy; Đồng chí Ngô Văn Chuyên – PBT, CT. UBND xã; Đồng chí Nguyễn Thị Hoa - Ủy viên BTV, Chủ tịch UBMTTQ Việt Nam xã; Đồng chí Nguyễn Văn Tư – Đảng ủy viên, Phó Chủ tịch HĐND xã; các đồng chí Thường trực UBND xã, Ban thường trực UBMTTQ Việt Nam xã; trưởng các tổ chức chính trị xã hội xã, bí thư chi bộ, trưởng thôn, trưởng ban công tác mặt trận cơ sở, thanh tra nhân dân xã…

Hội nghị triển khai kế hoạch vận động ủng hộ quỹ  “Vì biển, đảo Việt Nam” năm 2025.

Biển đảo Việt Nam là một phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, được các thế hệ cha ông ta từ hàng ngàn năm bảo vệ và liên tục xác lập chủ quyền, thực thi quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với các vùng biển, đảo và quần đảo. Biển có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong chiến lược bảo vệ và phát triển đất nước. Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Việt Nam vừa là nghĩa vụ, vừa là trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam.

Với tinh thần "Vì biển, đảo Việt Nam", cùng với cả nước, những năm qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Hiền Ninh đã có nhiều hoạt động thiết thực, ý nghĩa để cổ vũ, động viên cán bộ, chiến sĩ, nhân dân trên các vùng biển, đảo, góp phần xây dựng và bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Cùng với việc đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân xã về biển đảo, Hiền Ninh đã quan tâm, tổ chức vận động quỹ “Vì biển đảo” hàng năm

Nhằm phát huy sức mạnh, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc; tiếp tục thể hiện tình cảm, trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân với biển, đảo Việt Nam và có thêm nguồn lực để hỗ trợ quân và dân trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc, Ủy ban MTTQ Việt Nam xã kêu gọi các cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp, tổ chức tôn giáo và Nhân dân xã nêu cao tinh thần đoàn kết, chung sức, chung lòng, cùng hướng về biển, đảo Tổ quốc bằng những tình cảm và sự quan tâm, tích cực hưởng ứng ủng hộ Quỹ "Vì biển, đảo Việt Nam" của xã Hiền Ninh năm 2025.

Thời gian vận động quỹ từ 31/5/2025 đến hết 08/6/2025.

Triển khai bầu thành viên Ban Thanh tra nhân dân nhiệm kỳ 2025 – 2027 dự kiến vào ngày 18/5/2025.

Ngày Sách và Bản quyền Thế giới (23/4)
Ngày đăng 22/04/2025 | 12:47  | Lượt truy cập: 29

Từ năm 1995, đánh giá cao tầm quan trọng của văn hóa đọc, Liên hợp quốc đã chọn ngày 23/4 hàng năm để kỷ niệm Ngày Sách và bản quyền thế giới, nhằm tôn vinh những giá trị của sách và đóng góp của các tác giả khi cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị.

- Dù ở thời đại nào, con người cũng lấy việc học là một trong những phương cách để hoàn thiện bản thân, để tiến bộ trong cuộc sống cá nhân và để đóng góp vào phát triển xã hội và đọc sách là một trong những cách học hiệu quả. Vì thế, từ lâu đọc sách đã trở thành một nhu cầu thiết yếu của nhiều người.

- Ý tưởng về Ngày Sách và bản quyền thế giới bắt nguồn từ một phong tục truyền thống rất đẹp ở Catalonia (Tây Ban Nha). Vào ngày 23/4 hàng năm (ngày lễ Thánh Goerge), có rất nhiều hội chợ sách và các lễ hội đường phố được tổ chức và mỗi khách hàng sẽ được tặng một bông hồng kèm theo khi mua một cuốn sách vào ngày hôm đó.

Với những ý nghĩa đó, từ năm 1995, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đã chính thức chọn ngày 23/4 hằng năm là Ngày Sách và Bản quyền thế giới. UNESCO mong muốn khuyến khích tất cả mọi người, nhất là giới trẻ, khám phá những niềm vui của việc đọc sách; và ghi nhận những đóng góp không thể thay thế của nhiều tác giả đối với các tiến bộ xã hội và văn hóa của nhân loại.

Mỗi năm, UNESCO và 3 tổ chức quốc tế chuyên về sách là Hiệp hội Xuất bản Quốc tế (IPA), Liên đoàn Sách Quốc tế (IBF) và Liên đoàn Quốc tế các Thư viện và Hiệp hội Thư viện (IFLA) cùng chỉ định Thủ đô sách của thế giới trong khoảng thời gian một năm kể từ ngày 23/4.

- Sách chính là kho tàng kiến thức vô giá về mọi lĩnh vực trong cuộc sống của nhân loại. Đọc sách là con đường ngắn nhất giúp chúng ta tích góp được mọi tri thức từ cơ bản đến chuyên sâu ở mọi lĩnh vực của nhân loại để có thể phát triển bản thân mình ngày càng tốt hơn. Chính vì vậy quan tâm, phát triển văn hóa đọc chính là nâng cao dân trí, tạo nền tảng quan trọng để phát triển của mỗi một quốc gia.

- Ở Việt Nam, khẳng định vai trò và tầm quan trọng của sách trong đời sống xã hội, đồng thời khuyến khích phát triển phong trào đọc sách trong cộng đồng, ngày 24/2/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 284/QĐ-TTg lấy ngày 21/4 là Ngày Sách Việt Nam.

Đây cũng là dịp tôn vinh các tập thể, cá nhân điển hình trong hoạt động xuất bản, phát triển văn hóa đọc trên các phương tiện truyền thông, báo chí, nền tảng công nghệ, mạng xã hội nhằm lan tỏa sâu rộng giá trị của sách, của văn hóa đọc trong cộng; kết nối bạn đọc trong nước và nước ngoài; góp phần xây dựng đời sống văn hóa tinh thần, phát huy những giá trị đạo đức, truyền thống hiếu học của dân tộc

Ngày Sách và Bản quyền Thế giới ra đời với mục tiêu:

- Tôn vinh giá trị của sách và vai trò quan trọng của tác giả trong xã hội

- Nâng cao nhận thức về quyền tác giả và bảo vệ tài sản trí tuệ

- Thúc đẩy việc đọc sách, xuất bản sách và khuyến khích sáng tạo văn học

- Tạo cầu nối giao lưu văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới

- Tầm quan trọng của sách trong thời đại số

Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ với vô số phương tiện giải trí và thông tin hiện đại, sách vẫn giữ một vị trí đặc biệt không thể thay thế:

Sách là nguồn kiến thức bền vững: Không chỉ cung cấp thông tin, sách còn giúp người đọc hình thành tư duy phản biện, phát triển trí tưởng tượng và nuôi dưỡng tâm hồn.

Đọc sách giúp nâng cao chất lượng cuộc sống: Đọc sách thường xuyên giúp cải thiện vốn từ vựng, kỹ năng giao tiếp, tăng cường khả năng tập trung và giảm căng thẳng.

Sách là cầu nối văn hóa và lịch sử: Qua sách, chúng ta có thể đắm mình trong những nền văn hóa khác nhau, hiểu sâu sắc hơn về lịch sử dân tộc và thế giới.

Sách tồn tại đa dạng hình thức: Từ sách in truyền thống đến sách điện tử, sách nói - sách luôn thích nghi với xu hướng thời đại, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người đọc.

Hành động thiết thực hưởng ứng Ngày Sách và Bản quyền Thế giới

Mỗi cá nhân đều có thể đóng góp vào việc lan tỏa giá trị của sách và tôn trọng bản quyền:

Dành thời gian đọc sách mỗi ngày: Biến việc đọc sách thành thói quen, dù chỉ 15-30 phút mỗi ngày.

Chia sẻ sách hay với người thân: Tặng sách, giới thiệu sách hoặc tổ chức các buổi đọc sách cùng nhau.

Mua sách bản quyền: Lựa chọn những cuốn sách chính thống từ các nhà xuất bản uy tín để tôn trọng quyền tác giả.

Tham gia các hoạt động về sách: Đến các hội sách, tham dự giao lưu tác giả, hoặc tham gia các câu lạc bộ đọc sách.

Lan tỏa văn hóa đọc: Khuyến khích trẻ em đọc sách từ nhỏ, tạo thói quen đọc sách tại gia đình.

Học hỏi về bản quyền: Tìm hiểu và tuân thủ các quy định về bản quyền khi sử dụng tác phẩm của người khác.

 

 
 
 
Ngày Trái Đất (Earth Day – ED - 22/4)
Ngày đăng 22/04/2025 | 12:38  | Lượt truy cập: 22

Ngày Trái Đất (Earth Day – ED - 22/4) là ngày vận động mọi người nâng cao nhận thức và hành động nhằm bảo vệ giá trị của môi trường tự nhiên.

Ngày Trái Đất do Liên hợp quốc phát động, tổ chức vào ngày 22/4 hàng năm, nhằm khuyến khích các phong trào hoạt động bảo vệ môi trường trên toàn thế giới nhằm ngăn chặn các thảm họa đang xảy ra thường xuyên hơn do biến đổi khí hậu và tàn phá môi trường.

Ngày Trái đất được khởi xướng bởi một thượng nghị sĩ người Hoa Kỳ Gaylord Nelson. Với hình thức giống như một cuộc hội thảo về môi trường thì ngày Trái đất được tổ chức lần đầu tiên vào 22 tháng 4 năm 1970. Hiện nay, Ngày Trái Đất được điều phối bởi Mạng Ngày Trái đất (Earth Day Network) và được tổ chức hằng năm tại hơn 192 quốc gia trên toàn thế giới. Năm 2009, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc tuyên bố ngày 22 tháng 4 là ngày Quốc tế Mẹ Trái Đất (International Mother Earth Day).

Ngày Trái Đất được đề xuất lần đầu tiên vào ngày 21/3/1970 ở Mỹ. Tuy nhiên, sau đó sự kiện toàn cầu này được tổ chức vào ngày 22/4 hàng năm. Hơn 20 triệu người và hàng ngàn trường học đã tham gia Ngày Trái Đất đầu tiên tổ chức ở Mỹ hôm 22/4/1970. Sự kiện này có ảnh hưởng lớn khi thúc đẩy chính phủ Mỹ có những đạo luật mạnh mẽ hơn trong vấn đề bảo vệ môi trường.

Gaylord Nelson, nguyên thượng nghị sĩ đảng dân chủ bang Wisconsin, Mỹ được đánh giá là người tiên phong trong việc cho ra đời các sự kiện khác nối tiếp Ngày Trái Đất, đó là Luật Bảo vệ Môi trường, Luật Không khí Sạch, Luật Nước sạch và Luật Nước uống An toàn.

Kéo theo đó là sự ra đời mạng lưới Ngày Trái Đất (Earth Day Network - EDN) thu hút sự tham gia của gần 22.000 đối tác tại 192 quốc gia. Mỗi năm có hơn 1 tỷ người tham gia, hưởng ứng Ngày Trái Đất khiến cho nó trở thành một trong những phong trào lớn nhất thế giới.

Cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton từng tuyên bố: “Là cha đẻ của Ngày Trái Đất, Nelson đồng thời là người tiên phong để sau này cho ra đời các sự kiện khác nối tiếp Ngày Trái Đất, đó là Luật Bảo vệ Môi trường, Luật Không khí Sạch, Luật Nước sạch và Luật Nước uống An toàn”.

Nelson là người ủng hộ công cuộc bảo vệ môi trường tự nhiên và được biết đến như một trong những nhà lãnh đạo về môi trường đầu tiên trên thế giới. Ông được đánh giá là một người khiêm nhường, hài hước và không bao giờ bị ảnh hưởng bởi quyền lực và sự phù hoa của những cương vị ông từng nắm giữ.

Ngày Trái Đất 22/4 được Liên Hợp Quốc công nhận từ năm 2009, trở thành sự kiện thường niên được cả thế giới tổ chức, nhìn nhận về giá trị môi trường tự nhiên của Trái đất, kêu gọi sự tham gia tích cực của mỗi người để chung tay bảo vệ hành tinh. Năm 2020, chủ đề được lựa chọn là “Hành động vì khí hậu”.

Ngày Trái Đất giờ đây được điều phối toàn cầu bởi Mạng Ngày Trái Đất (Earth Day Network) và được tổ chức hàng năm tại hơn 175 nước. Nhiều cộng đồng còn tổ chức Tuần Trái Đất, một tuần của các hoạt động xoay quanh các vấn đề môi trường. Năm 2009, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc tuyên bố ngày 22 tháng 4 là Ngày Quốc tế Mẹ Trái Đất (International Mother Earth Day).

Ngày Trái đất đã trở thành sự kiện thường niên được cả thế giới tổ chức để nhìn nhận về giá trị của môi trường tự nhiên, và qua đó kêu gọi sự tham gia tích cực của mỗi người cùng chung tay bảo vệ Trái đất.

Ý nghĩa của Ngày Trái đất

Ngày Trái đất là ngày vận động toàn dân nâng cao nhận thức và hành động nhằm bảo vệ giá trị của môi trường tự nhiên toàn cầu.

Trong Ngày Trái đất, mọi người thường tổ chức các hoạt động nhằm mục đích bảo vệ môi trường như tuyên truyền kêu gọi mọi người chung sức bảo vệ môi trường sống, tổ chức trồng cây xanh, thu gom rác thải, bảo vệ môi trường sống xanh sạch đẹp.

Chủ đề của Ngày Trái đất năm 2025 là “Our Power, Our Planet” - “Sức mạnh của chúng ta, Hành tinh của chúng ta” nhằm thúc đẩy sử dụng năng lượng tái tạo.

Zalo
Zalo

 

 

 

 

 

 

 
 
 
Dự kiến hơn 13.000 người tham gia lễ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam
Ngày đăng 21/04/2025 | 04:06  | Lượt truy cập: 18

Lễ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước sẽ diễn ra trọng thể vào sáng ngày 30-4 tại TP Hồ Chí Minh.

Phần diễu binh của 35 khối thuộc lực lượng vũ trang, công an do Bộ Quốc phòng và Bộ Công an phối hợp thực hiện, phần diễu hành sẽ do Thành phố đảm nhiệm.

Cụ thể, ngoài 11 khối diễu hành theo hướng dẫn của Trung ương, TP Hồ Chí Minh đã đề xuất bổ sung thêm khối người Việt Nam ở nước ngoài.

Công tác chuẩn bị cho Lễ diễu binh, diễu hành được triển khai chặt chẽ, đồng bộ, bám sát nội dung hướng dẫn của Trung ương.

Trước đó, Bộ Quốc phòng đã phối hợp với UBND TP Hồ Chí Minh tổ chức khảo sát thực tế và thống nhất dự thảo về chương trình Lễ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Hoạt động diễu binh, diễu hành sẽ diễn ra trên tuyến đường Lê Duẩn (quận 1).

Trong chương trình có nội dung bắn 21 loạt đại bác trên nền Quốc thiều nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam; Không quân bay chào mừng; diễu hành xe mô hình Quốc huy - khối cờ Đảng, cờ Tổ quốc, xe rước chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, xe mô hình biểu tượng 50 năm Ngày thống nhất đất nước…

Zalo
Zalo
Zalo
Zalo
Zalo
Zalo
Chi tiết các hoạt động thuộc Lễ kỷ niệm cấp quốc gia 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
Ngày đăng 21/04/2025 | 03:59  | Lượt truy cập: 20

Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là sự kiện chính trị đặc biệt quan trọng, do Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và TP.HCM thực hiện

Hoạt động được mong chờ nhất trong tuyến kỷ niệm 50 năm đất nước thống nhất là chương trình Lễ kỷ niệm cấp quốc gia tổ chức từ 6h ngày 30/4 tại tuyến đường Lê Duẩn, quận 1 và một số tuyến đường trung tâm TP.HCM.

Chương trình gồm hai phần, phần một là mít tinh và phần hai là lễ diễu binh, diễu hành.

Lễ mít tinh bắt đầu từ 6h30 ngày 30/4. Trước khi lễ mít tinh chính thức diễn ra sẽ có 30 phút chương trình nghệ thuật, trong đó có màn múa súng của quân đội, màn trống hội của công an, một số tiết mục nghệ thuật do TP.HCM đảm nhiệm.

Sau lễ chào cờ, giới thiệu đại biểu, Tổng Bí thư Tô Lâm sẽ đọc diễn văn kỷ niệm 50 năm thống nhất đất nước. Tiếp theo là diễn văn kỷ niệm của các lãnh đạo Đảng, Nhà nước, phát biểu của đại diện cựu chiến binh, của đại diện thế hệ trẻ Việt Nam... Sau đó, ca khúc Đất nước trọn niềm vu i nối phần mít tinh sang phần diễu binh, diễu hành.

Chương trình diễu binh, diễu hành do Bộ Quốc phòng chủ trì bao gồm: 04 khối Diễu hành của khối Nghi trượng; 36 khối diễu binh; 12 khối diễu hành. Dự kiến tăng thêm sự tham gia của hai khối diễu binh của hai nước bạn Lào và Campuchia trong Lễ kỷ niệm, diễu binh, diễu hành.

TUYẾN ĐƯỜNG DIỄU BINH, DIỄU HÀNH

Sau khi đi qua Lễ đài đến vị trí tách đội hình (cổng Hội trường Thống Nhất), các khối đi theo 04 tuyến đường:

Tuyến số 1 : Rẽ trái đi theo đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa – Lê Lợi – Nguyễn Huệ - Công viên Bến Bạch Đằng.

Tuyến số 2 : Rẽ trái đi theo đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa – Lê Lợi – Lê Lai – Cách mạng Tháng Tám - Công viên Tao Đàn.

Tuyến số 3 : Rẽ phải đi theo đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa – Nguyễn Đình Chiểu – Đinh Tiên Hoàng – Sân vận động Hoa Lư.

Tuyến số 4 : Rẽ phải đi theo đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa – Điện Biên Phủ - Hai Bà Trưng – Công viên Lê Văn Tám.

Zalo
Zalo

 

 

 

 
 
 
Nhiều hoạt động kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
Ngày đăng 21/04/2025 | 03:51  | Lượt truy cập: 24

Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là sự kiện chính trị đặc biệt quan trọng, có quy mô cấp quốc gia.Sự kiện do Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện.

Chương trình Lễ kỷ niệm cấp quốc gia được tổ chức vào lúc 6 giờ 30 phút ngày 30-4, tại tuyến đường Lê Duẩn, quận 1 và một số tuyến đường trung tâm TP Hồ Chí Minh. Chương trình diễu binh, diễu hành do Bộ Quốc phòng chủ trì bao gồm: 4 khối diễu hành của khối nghi trượng, 36 khối diễu binh, 12 khối diễu hành. Dự kiến có khối diễu binh của Lào và Campuchia trong Lễ kỷ niệm. Chương trình được truyền hình trực tiếp trên VTV1-Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình TP Hồ Chí Minh và các Đài Phát thanh-Truyền hình địa phương.

Trước đó vào ngày 29-4, TP Hồ Chí Minh tổ chức Lễ dâng hương, dâng hoa tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ; dâng hương, dâng hoa tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Tôn Đức Thắng.

Từ ngày 19 đến 30-4, tại TP Hồ Chí Minh diễn ra chuỗi hoạt động chào mừng, gồm: Lễ hội “Sắc màu Thành phố Bác” với điểm nhấn là trình diễn nghệ thuật 3D mapping tại mặt tiền trụ sở UBND TP Hồ Chí Minh kết hợp ánh sáng, âm thanh và nhạc giao hưởng - hợp xướng. Đặc biệt, đêm 19-4 trình diễn 2.000 thiết bị bay không người lái (drone), kết hợp pháo hoa nghệ thuật thắp sáng bầu trời Thành phố, mang lại trải nghiệm ngoạn mục cho khán giả.

Triển lãm điện ảnh “Âm vang đại thắng mùa Xuân 1975”, với 300 ảnh tư liệu quý, chiếu phim cộng đồng vào đêm 27 và 28-4, tại sân khấu Nguyễn Huệ - Ngô Đức Kế. Chương trình nghệ thuật đặc biệt “Ngày hội Thống nhất non sông” được tổ chức và truyền hình trực tiếp trên toàn quốc tại Hội trường Thống nhất, Quận 1, TP Hồ Chí Minh, vào tối 30-4.

Chương trình nghệ thuật ngoài trời “Đất nước trọn niềm vui” vào ngày 20-4, tại Hội trường Thống Nhất; chương trình hòa nhạc đặc biệt chủ đề “Bản giao hưởng Hòa bình” vào tối 21-4, tại Nhà hát TP Hồ Chí Minh; cầu truyền hình cấp quốc gia “Vang mãi khúc khải hoàn” vào ngày 27-4, tại điểm cầu TP Hồ Chí Minh; chương trình nghệ thuật đặc biệt do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì phối hợp với TP Hồ Chí Minh tổ chức vào ngày 29-4, tại phía trước Hội trường Thống Nhất…

 

'Đường Kách Mệnh': Kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam
Ngày đăng 21/04/2025 | 01:12  | Lượt truy cập: 13

“Đường kách mệnh” của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ra đời có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với hoạt động của cách mạng Việt Nam. Tác phẩm có vai trò như kim chỉ nam cho đường lối của cách mạng Việt Nam.

“Đường Kách Mệnh” là tác phẩm tập hợp các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện cán bộ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tổ chức tại Quảng Châu (Trung Quốc) trong những năm 1925 - 1927. Cuốn sách được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức tập hợp lại và xuất bản thành sách năm 1927.

“Đường Kách Mệnh” là một tác phẩm lý luận, nhưng Bác lại đặt vấn đề về tư cách - đạo đức của người cách mệnh lên ngay từ những trang đầu của cuốn sách. Tức là, phải trung thành với lý tưởng và mục tiêu, phải kiên định với sự nghiệp đấu tranh, và nhất là phải giữ chủ nghĩa cho vững và ít lòng ham muốn về vật chất.

Từ khi Đảng còn chưa ra đời, Bác đã nhìn nhận rõ yếu tố quan trọng là cách mạng muốn thành công thì ngoài đường lối chính trị, ngoài lý tưởng mục tiêu ra, một vấn đề hết sức hệ trọng là đạo đức của người cách mệnh, đạo đức của Đảng cách mệnh, nhất là khi ở vị trí cầm quyền. Bác nhấn mạnh, người cách mệnh phải ít lòng ham muốn về vật chất, có bản lĩnh chống chủ nghĩa cá nhân, chống giặc nội xâm, phải có đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính, chí công vô tư thì mới toàn tâm toàn ý vì sự nghiệp cách mạng, vì sự nghiệp phục vụ nhân dân.

“Đường Kách Mệnh” có cả giá trị khoa học, giá trị đạo đức, giá trị văn hóa - nhất là văn hóa chính trị. Đây chính là giá trị bền vững, có sức sống ảnh hưởng sâu rộng lâu dài trong sự nghiệp của chúng ta hiện nay và mai sau. Trong nội dung “Đường Kách Mệnh”, Bác còn đặt vấn đề là phải rất chú trọng trong ứng xử với người, với việc, với tổ chức đoàn thể, Bác đặc biệt nhấn mạnh từ nghiêm túc: Với mình thì nghiêm, với người thì rộng lòng khoan thứ, với tổ chức thì giữ nguyên tính tổ chức.

Trong “Đường Kách Mệnh”, Bác còn đưa ra một khảo cứu lịch sử và lý luận cả về tổ chức công đoàn, về hợp tác xã, các tổ chức liên hiệp của phụ nữ, các tổ chức mặt trận đoàn thể, kể cả những vấn đề về hội chữ thập đỏ... Mặc dù, trong cuốn sách này, Bác chưa một lần sử dụng thuật ngữ hệ thống chính trị, nhưng việc Người nói về Đảng, về cách mạng, về giành chính quyền, về thành lập các đoàn thể của dân, để dân làm chủ... chính là tư tưởng dân chủ và hệ thống chính trị sau này. Người tìm ra con đường các dân tộc thuộc địa bị áp bức hoàn toàn có thể chủ động để giành lấy thắng lợi bằng sự nghiệp cách mạng “đem sức ta mà giải phóng cho ta, và thắng lợi của Cách mạng tháng Tám ở nước ta đã chứng thực tư tưởng này của Bác là hoàn toàn đúng đắn và chính xác.

Trong “Đường Kách Mệnh” Bác viết, Đảng lấy công tác lý luận tư tưởng làm gốc và đào tạo cán bộ sau này. Tư tưởng này sau đó được Bác phát triển sâu trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, được Bác viết ở chiến khu Việt Bắc năm 1947. Trong đó, Người dành cả một chương quan trọng để nói về xây dựng Đảng cách mạng chân chính với 12 điều, mà điều quan trọng nhất: Đảng là một tổ chức cách mạng phục vụ giai cấp dân tộc và nhân loại, chứ Đảng không phải một tổ chức để làm quan phát tài. “Khi viết tư cách Đảng cách mệnh chân chính, Bác đặc biệt chú trọng đến động cơ chính trị của người vào Đảng, động cơ này mà không trong sáng, không vì dân vì nước, không vì sự nghiệp chung, mà vì vụ lợi, vị kỷ, cá nhân thì sớm muộn rồi cũng sẽ biến dạng và thoái hóa.

 

Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam 21/4: Cùng sách bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Ngày đăng 21/04/2025 | 12:58  | Lượt truy cập: 22

Ngày 21/4 hằng năm được lựa chọn là ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam. Đây là thời điểm các hoạt động tuyên truyền, vận động người dân nâng cao tinh thần đọc sách được diễn ra sôi nổi

Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam là ngày nào?

Sách là một kho tàng kiến thức vô giá của nhân loại, tuy nhiên văn hóa đọc sách ngày càng mai một ở thế hệ trẻ. Ngày 24/2/2014, Thủ tướng Chính Phủ đã ký quyết định lấy ngày 21/4 hằng năm là ngày Sách Việt Nam nhằm khuyến khích tinh thần đọc sách và nâng cao tầm nhận thức của người dân về tầm quan trọng của việc đọc sách.

Để đưa văn hóa đọc phát triển lên tầm cao mới, ngày 4/11/2021 Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định về việc tổ chức Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam thay thế cho Ngày Sách Việt Nam trước đây và vẫn được diễn ra vào ngày 21/4 hằng năm.

Nguồn gốc của ngày Sách Việt Nam

Sách là giá trị tinh thần vô cùng quan trọng trong đời sống của con người, là kho tàng tri thức vô tận và là ánh sáng dẫn bước đi đến tương lai. Văn hóa đọc là một trong những truyền thống quý báu cần được phát huy để có thể phát triển bền vững.

Nhận thấy tầm quan trọng, vào ngày 24/2/2014 Thủ tướng Chính phủ đã quyết định lấy ngày 21/4 hằng năm làm ngày Sách Việt Nam. Việc làm này có ý nghĩa to lớn giúp nhân dân có thể phát huy được toàn vẹn tri thức, kỹ năng và vẫn giữ được bản sắc hiếu học từ bao đời của dân ta.

Ý nghĩa của ngày Sách Việt Nam

Ngày Sách Việt Nam 21/4 mang ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đây không chỉ là một sự kiện văn hóa giúp nâng cao tinh thần năng đọc sách của người dân, mà còn góp phần vào việc xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiến tiến theo từng ngày, nhưng vẫn giữ được nét đẹp dân tộc.

Bên cạnh đó, ngày 21/4 còn là ngày kỷ niệm sự ra đời của cuốn sách “Đường Kách mệnh" - tác phẩm kinh điển của Chủ tịch Hồ Chí Minh và là quyển sách lần đầu tiên được in bởi những thợ in người Việt Nam

Chủ đề ngày Sách Việt Nam 2025

Một số thông điệp của Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam năm 2025 gồm “Văn hóa đọc - Kết nối cộng đồng”, “Cùng sách bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, “Đọc sách - làm giàu tri thức, nuôi dưỡng khát vọng, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo”.

Zalo

 

 

 

 
 
 
Hiền Ninh tổ chức lấy ý kiến nhân dân về phương án sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã mới sẽ hình thành trên địa bàn; xin ý kiến về dự kiến tên gọi của các đơn vị hành chính mới
Ngày đăng 21/04/2025 | 12:32  | Lượt truy cập: 33

Tài liệu phục vụ việc lấy ý kiến nhân dân là phương án sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã trên địa bàn mà hộ gia đình cư trú.

Đối tượng lấy ý kiến là cử tri đại diện hộ gia đình thường trú trên địa bàn quận, huyện, thị xã. Việc phát phiếu lấy ý kiến trực tiếp cho đại diện hộ gia đình hoặc tổ chức hội nghị cử tri đại diện hộ để phát phiếu lấy ý kiến do UBND cấp xã quyết định (tùy theo điều kiện, địa phương lựa chọn hình thức phù hợp).

Nội dung lấy ý kiến: Xin ý kiến cử tri về phương án sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã mới sẽ hình thành trên địa bàn; xin ý kiến về dự kiến tên gọi của các đơn vị hành chính mới.

UBND cấp xã quyết định thành lập các tổ lấy ý kiến nhân dân theo địa bàn thôn, tổ dân phố hoặc theo khu vực; thành viên mỗi tổ do địa phương quyết định. Tổ trưởng là bí thư chi bộ hoặc trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố; các tổ viên là đại diện các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân có uy tín ở thôn, tổ dân phố; thời gian hoàn thành chậm nhất ngày 19/4/2025 (thứ Bảy)

Tổ lấy ý kiến nhân dân có trách nhiệm nhận phiếu lấy ý kiến do UBND cấp xã cấp. Tổ trưởng phân công cho các thành viên đến các hộ gia đình phát phiếu lấy ý kiến cho cử tri đại diện hộ hoặc phát phiếu lấy ý kiến tại cuộc họp thôn, tổ dân phố hoặc khu vực để lấy ý kiến. Thời gian hoàn thành chậm nhất ngày 21/4/2025 (thứ Hai)

Trong ngày 20/4 các tổ lấy ý kiến trên đại bàn xã Hiền Ninh đã tổ chức lấy ý kiến đến tận hộ gia đình trên địa bàn xã.

Zalo
Zalo
Zalo
Zalo
Zalo
Zalo
Zalo
Zalo
Zalo
Zalo
Zalo
Zalo
Zalo
Xã Hiền Ninh tổ chức hội nghị triển khai lấy ý kiến của Nhân dân (theo hình thức lấy phiếu đến từng hộ gia đình) về phương án sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã
Ngày đăng 19/04/2025 | 08:55  | Lượt truy cập: 53

Ngày 19/4/2025 tại Phòng họp UBND xã Hiền Ninh đã diễn ra hội nghị triển khai lấy ý kiến của Nhân dân về phương án sắp xếp các đơn vị hành xã

Dự hội nghị có thành viên Tổ công tác huyện gồm: Đồng chí Trần Kiên - Phó trưởng phòng Văn hóa, Khoa học và thông tin huyện Sóc Sơn, Đồng chí Phạm Thị Thanh - PCT Hội LHPN huyện . Về phía xã có các đồng chí trong BCH Đảng bộ, bí thư chi bộ, trưởng thôn, trưởng Ban CTMT thôn.

Việc triển khai và tổ chức lấy ý kiến của Nhân dân (theo hình thức lấy phiếu đến từng hộ gia đình) từ ngày 19/4 đến ngày 22/4/2025

Zalo
Zalo
Zalo
PHƯƠNG ÁN THÀNH LẬP 5 ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH CẤP XÃ TRÊN PHẠM VI HUYỆN SÓC SƠN
Ngày đăng 19/04/2025 | 08:43  | Lượt truy cập: 40

Huyện Sóc Sơn hiện có 26 đơn vị hành chính (01 Thị trấn và 25 xã), diện tích 305,51 km2, dân số 373.559 người.

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về tổ chức đơn vị hành chính 2 cấp (cấp tỉnh, cấp xã, bỏ cấp huyện), UBND Thành phố Hà Nội dự kiến thành lập các đơn vị hành chính cấp xã mới trên địa bàn huyện Sóc Sơn như sau:

1, Số lượng đơn vị hành chính cấp xã: 05.

2, Phương án sáp nhập, diện tích, dân cư của từng đơn vị như sau:

- Xã Trung Giã: bao gồm toàn bộ diện tích và dân cư của các xã Bắc Sơn, Nam Sơn, Hồng Kỳ và Trung Giã hiện nay; Diện tích: 77,52 km2; Dân số: 58.996 người. Dự kiến trung tâm hành chính đặt tại xã Hồng Kỳ.

- Xã Đa Phúc: bao gồm các xã Tưng Hưng, Bắc Phú, Xuân Giang, Việt Long, Đức Hòa, Xuâ Thu, Kim Lũ hiện nay; Diện tích:  55,32 km2; Dân số: 81.235 người. Dự kiến trung tâm hành chính đặt tại xã Xuân Giang.

- Xã Sóc Sơn: bao gồm toàn bộ diện tích và dân cư các xã Tiên Dược, Phù Linh, Tân Minh, Đông Xuân, Phù Lỗ, Thị trấn Sóc Sơn; toàn bộ dân cư và phần lớn diện tích xã Mai Đình (không bao gồm khu vực Sân bay Nội Bài), một phần diện tích xã Quang Tiến (Khu Công nghiệp Nội Bài); Diện tích: 68,3 km2; Dân số: 116.932 người. Dự kiến trung tâm hành chính đặt tại Thị trấn Sóc Sơn (trụ sở Huyện ủy, HĐND, UBND huyện hiện nay).

- Xã Nội Bài: bao gồm toàn bộ diện tích và dân cư các xã Thanh Xuân, Hiền Ninh, Phú Minh, Phú Cường, toàn bộ dân cư và phần lớn diện tích xã Quang Tiến (không bao gồm khu Công nghiệp Nội bài) và một phần diện tích xã Mai Đình (khu vực Sân bay Nội Bài); Diện tích: 51,58 km2; Dân số: 69.293 người. Dự kiến trung tâm hành chính đặt tại xã Thanh Xuân.

- Xã Kim Anh: bao gồm toàn bộ diện tích và dân cư các xã Tân Dân, Minh Phú, Minh Trí hiện nay; Diện tích: 52,8 km2; Dân số: 47.103 người. Dự kiến trung tâm hành chính đặt tại xã Minh Trí.

Phương án dự kiến này bám sát chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương, Thành phố, bám sát vào đặc điểm lịch sử, truyền thống văn hóa của các địa phương và điều kiện phát triển của các địa phương; về tên gọi căn cứ vào các tên gọi trước đây và hiện nay của huyện (Đa Phúc, Kim Anh, Sóc Sơn), các công trình, sự kiện, di tích nổi bật trong đặc điểm các địa phương (Nội Bài, Trung Giã).

Sau khi được Ban Cháp hành Đảng bộ huyện thông qua, ra nghị quyết lãnh đạo thực hiện, phương án sắp xếp, tổ chức và tên gọi các đơn vị hành chính cấp xã sẽ được tổ chức lấy ý kiến của Nhân dân (theo hình thức lấy phiếu đến từng hộ gia đình) từ ngày 19/4 đến ngày 22/4/2025; HĐND các xã tổ chức họp ra nghị quyết thực hiện chủ trương trên, hoàn thành trước ngày 24/4 và HĐND huyện họp ra nghị quyết thực hiện trước ngày 26/4, trình Thành phố tại kỳ họp HĐND ngày 29/4.

Về việc treo cờ Tổ quốc, vệ sinh môi trường trên địa bàn xã Hiền Ninh
Ngày đăng 17/04/2025 | 03:47  | Lượt truy cập: 38

Nhân chào mừng kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 -30/4/2025); 139 năm Ngày Quốc tế Lao động (01/5/1886 - 01/5/2025); 71 năm Ngày chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954-7/5/2025)

Nhằm thông tin rộng rãi, tạo không khí vui tươi, phấn khởi cho nhân dân trong toàn xã chào mừng kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 -30/4/2025); 139 năm Ngày Quốc tế Lao động (01/5/1886 - 01/5/2025);71 năm Ngày chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954-7/5/2025), UBND xã Hiền Ninh đề nghị các cơ quan, đơn vị, tổ chức, đoàn thể, trưởng thôn và các hộ gia đình trên địa bàn xã và đài truyền thanh thực hiện một số nội dung như sau:

1. Treo cờ Tổ Quốc, cờ Đảng, băng rôn, khẩu hiệu tại công sở, cơ quan, đơn vị, trường học và các nơi công cộng; toàn thể nhân dân treo cờ tổ quốc tại gia đình từ ngày 18/4/2025 – đến hết ngày 09/5/2025.

2. Tổ chức tổng vệ sinh nơi làm việc, khu vực do cơ quan, đơn vị quản lý, vệ sinh nơi ở, đường làng, ngõ xóm, nhà văn hóa, các địa điểm công cộng trên địa bàn xã tạo cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp.

3. Các thôn tổ chức rà soát, kiểm tra, tháo dỡ các băng rôn, khẩu hiệu đã hết hạn sử dụng. Phát động nhân dân bóc, xóa các quảng cáo rao vặt sai quy định treo hoặc dán trên các cột điện, cây xanh, tường nhà.

UBND xã Hiền Ninh đề nghị các cơ quan, đơn vị, tổ chức, đoàn thể, trưởng thôn và các hộ gia đình trên địa bàn xã nghiêm túc thực hiện nội dung thông báo trên. Yêu cầu các thôn thông báo rộng rãi trên loa truyền thanh để nhân dân nắm được và thực hiện./.

 

 
 
 
KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975 - 30/4/2025) Phần 5
Ngày đăng 17/04/2025 | 12:48  | Lượt truy cập: 42

V. PHÁT HUY TINH THẦN ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN 1975 TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY

Kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là dịp chúng ta ôn lại những trang sử hào hùng của dân tộc, nhìn lại chặng đường phấn đấu xây dựng và phát triển đất nước; đồng thời nhận thức sâu sắc hơn giá trị, những bài học kinh nghiệm được tổng kết từ trong thực tiễn đấu tranh của dân tộc để tiếp thêm sức mạnh, ý chí quyết tâm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, biến những thành tựu vẻ vang trong quá khứ thành động lực để hoàn thành sứ mệnh lịch sử trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình, phát triển phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, thịnh vượng của dân tộc Việt Nam.

1. Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đường lối đổi mới; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng. Gắn kết chặt chẽ tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận với xây dựng và tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc               Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

2. Nhận diện sớm, phát huy nhanh mọi thời cơ, thuận lợi, vượt qua mọi khó khăn, thách thức để tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ chiến lược, trong đó: Phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa, con người là nền tảng; tăng cường quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế là trọng yếu, thường xuyên. Khơi dậy mạnh mẽ trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta lòng yêu nước cách mạng, tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc”, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vững bước vào kỷ nguyên mới, đạt mục tiêu chiến lược đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

3. Đẩy mạnh, xây dựng, hoàn thiện thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước, kiên quyết tháo gỡ các điểm nghẽn, nút thắt, khơi thông và giải phóng mọi nguồn lực, phát huy mọi động lực. Đổi mới mạnh mẽ, hiệu quả mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao. Tự chủ chiến lược phát triển; phát huy nguồn nội lực là chủ đạo, nguồn lực quốc tế là quan trọng; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Đồng bộ và đột phá trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; tập trung phát triển lực lượng sản xuất mới (kết hợp giữa nguồn nhân lực chất lượng cao với tư liệu sản xuất mới, hạ tầng chiến lược về giao thông, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh) gắn với hoàn thiện quan hệ sản xuất. Đẩy mạnh công nghệ chiến lược, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo làm động lực chính cho phát triển.

4. Tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh toàn diện; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng; tăng cường kiểm soát quyền lực, kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; tiếp tục nghiên cứu, sắp xếp tinh gọn đơn vị hành chính các cấp; hoàn thiện nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị gắn với cơ cấu lại và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Kiên định lập trường, quan điểm và thực hành “Dân là gốc”, “Nhân dân là chủ thể, trung tâm của công cuộc đổi mới”, thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân; tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng; thực hiện nhất quán nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân; bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, vai trò làm chủ và chủ thể của Nhân dân là những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giai đoạn mới.

Đổi mới mạnh mẽ việc ban hành và quán triệt, thực hiện nghị quyết của Đảng; xây dựng các tổ chức cơ sở đảng, đảng viên; đổi mới công tác kiểm tra, giám sát; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các hoạt động của Đảng và Nhà nước. Đổi mới quy trình xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật trên cơ sở bám sát thực tiễn, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với phương châm "địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm"; cải cách triệt để thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân và doanh nghiệp. Tập trung kiểm soát quyền lực trong xây dựng pháp luật, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm người đứng đầu, kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, "lợi ích nhóm". Chủ động, tích cực, khẩn trương xây dựng hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới, tạo khung khổ pháp lý để thực hiện thành công cuộc cách mạng về chuyển đổi số, tạo đột phá cho phát triển đất nước những năm tiếp theo.

5. Luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng "thế trận lòng dân", lấy "yên dân" là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kiên quyết, kiên trì, chủ động tạo lập thời cơ, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và điều kiện thuận lợi để xây dựng, phát triển đất nước. Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tăng cường đầu tư thích đáng cho việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, lực lượng vũ trang nhân dân, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy; tuyệt đối không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

6. Giữ vững độc lập tự chủ, bảo đảm cao nhất lợi ích của quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Kiên trì và sáng tạo thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, hiệu quả. Chủ động tham gia vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu; phấn đấu trở thành thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, vì lợi ích chung của hòa bình, hợp tác, phát triển của khu vực và trên thế giới./.

KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975 - 30/4/2025) Phần 4
Ngày đăng 17/04/2025 | 12:46  | Lượt truy cập: 40

IV. THÀNH TỰU PHÁT TRIỂN 50 NĂM GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC - TIỀN ĐỀ CHO KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH CỦA DÂN TỘC

1. Sau khi đất nước thống nhất, nước ta phải đối mặt với những hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh để lại. Một sự kiện quan trọng diễn ra sau ngày miền Nam giải phóng là cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, giữ vững độc lập, chủ quyền, lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc; đồng thời, làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả. Trong đó, cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam do tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xari ở Campuchia gây ra ngay sau khi Việt Nam vừa mới giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam của Việt Nam chỉ kéo dài 2 năm (từ năm 1977 đến 1979) nhưng hậu quả kinh tế, xã hội của nó khá nặng nề đối với Việt Nam. Cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, khủng hoảng kinh tế - xã hội diễn ra gay gắt, tỉ lệ lạm phát có lúc lên đến 774,7%, đời sống Nhân dân hết sức khó khăn, thiếu lương thực triền miên, khoảng ¾ dân số sống ở mức nghèo khổ.

Phát huy tinh thần yêu nước, tự lực tự cường cùng ý chí quyết tâm, bản lĩnh, sáng tạo vượt qua mọi khó khăn, thách thức, nắm bắt thuận lợi, thời cơ; sau gần 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo nhiều dấu ấn nổi bật.

- Về chính trị: Việt Nam giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, bảo đảm vai trò quản lý hiệu quả của Nhà nước, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa             Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo tiếp tục được hoàn thiện; có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp dưới sự giám sát của Nhân dân.

- Về kinh tế: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ. Quy mô nền kinh tế năm 2023 đạt 433,7 tỷ USD, đứng thứ 35 trên thế giới, đứng thứ 5 trong ASEAN, GDP bình quân đầu người đạt 4.323 USD, gấp 58 lần sau ba thập kỷ, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 2,93% năm 2023. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm, duy trì tăng trưởng kinh tế khá cao so với khu vực và thế giới. Năng suất lao động liên tục tăng, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được nâng cao rõ rệt.

Năm 2024, tăng trưởng cả năm đạt 7,09% (thuộc nhóm số ít các nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới); kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát dưới 4%, các cân đối lớn được bảo đảm và có thặng dư. Quy mô GDP theo giá hiện hành ước đạt 11.511,9 nghìn tỷ đồng, tương đương 476,3 tỷ USD; GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành ước đạt 114 triệu đồng/người, tương đương 4.700 USD; năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2024 theo giá hiện hành ước đạt 221,9 triệu đồng/lao động. Giá trị thương hiệu quốc gia Việt Nam năm 2024 đạt 507 tỷ USD, xếp thứ 32/193, tăng 1 bậc so với năm 2023. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu ước đạt 786,29 tỷ USD tăng 15,4%, xuất siêu 24,77 tỷ USD, là năm thứ 9 liên tiếp xuất siêu. Thu NSNN ước cả năm đạt 2.037,5 nghìn tỷ đồng tăng 19,8% so với dự toán. Đầu tư phát triển đạt kết quả tích cực. Nhiều công trình giao thông quan trọng, quy mô lớn được đầu tư, nâng cấp, bảo đảm kết nối giữa các trung tâm kinh tế lớn, các vùng miền trong cả nước và giao thương quốc tế. Việt Nam nằm trong nhóm 15 nước đang phát triển thu hút FDI lớn nhất thế giới với 38,23 tỷ USD đăng ký, vốn thực hiện đạt 25,35 tỷ USD, tăng 9,4%, cao nhất trong nhiều năm qua; khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam ước đạt 17,6 triệu lượt, tăng 39,5% so với năm 2023. Cơ cấu nền kinh tế chuyển dịch tích cực: kinh tế số, kinh tế xanh đóng vai trò ngày càng quan trọng. Các lĩnh vực chủ yếu đều tăng trưởng, trong đó công nghiệp phục hồi tích cực, là động lực quan trọng, dẫn dắt tăng trưởng.

- Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế... đều có sự phát triển vượt bậc, định hình hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam. Đến nay có gần 99% số người lớn Việt Nam biết đọc, biết viết, số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 20 lần, phổ cập giáo dục trung học cơ sở từ năm 2014... Tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước được nâng lên. Chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội; chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, chính sách người có công, chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài... được thực hiện đồng bộ, đạt kết quả tích cực. Sức khỏe của Nhân dân được quan tâm chăm sóc; việc khám, chữa bệnh tiếp cận được nhiều kỹ thuật tiên tiến trên thế giới.

Năm 2024, an sinh xã hội được tập trung bảo đảm; đời sống người dân được cải thiện. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 1,93%. Theo xếp hạng của Liên hợp quốc, chỉ số hạnh phúc năm 2024 của Việt Nam tăng 11 bậc, xếp thứ 54/143. Chất lượng khám, chữa bệnh từng bước được nâng lên; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng từ 90,2% năm 2020 lên 94,1% năm 2024. Chất lượng giáo dục các cấp được cải thiện. Ứng dụng khoa học - công nghệ được tăng cường; hệ sinh thái khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo được hình thành và phát triển. Chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên ; lực lượng lao động, tỷ lệ lao động có việc làm tăng. Các chính sách dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng được ưu tiên, chú trọng; công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em, giáo dục thanh, thiếu niên, phát huy vai trò người cao tuổi, bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ, thông tin truyền thông... được tăng cường. Chỉ số phát triển bền vững (SDGs) của Việt Nam năm 2024 xếp thứ 54/166, tăng 1 bậc so với năm 2023.

- Về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc: Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc và lợi ích quốc gia - dân tộc tiếp tục được bảo vệ vững chắc; gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh; tiềm lực quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường trên nhiều mặt. Xây dựng thế trận lòng dân gắn với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân được xây dựng chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, vững mạnh về chính trị, là lực lượng nòng cốt để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Hình thành thế trận an ninh nhân dân, bố trí chặt chẽ từ Trung ương đến cơ sở; xây dựng công an cấp xã, lực lượng tham gia bảo vệ trật tự, an ninh, đưa công an nhân dân gần dân, sát dân để phục vụ. Có đối sách, giải pháp phù hợp, xử lý kịp thời, có hiệu quả các tình huống, không để xảy ra bị động, bất ngờ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.

- Về đối ngoại: Hội nhập quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả, đạt nhiều thành tựu quan trọng, có ý nghĩa chiến lược và lâu dài, tạo cục diện đối ngoại mới, rộng mở, thuận lợi cho an ninh và phát triển, nâng cao vị thế đất nước, thể hiện vai trò tiên phong trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước. Nâng cấp, nâng tầm quan hệ với các đối tác chủ chốt, các nước lớn; đảm nhiệm thành công nhiều trọng trách quốc tế; đề xuất nhiều sáng kiến, giải pháp tại các cơ chế hợp tác đa phương quan trọng. Ngoại giao kinh tế được đẩy mạnh, khai thác hiệu quả các cơ hội hợp tác kinh tế. Mở rộng, làm sâu sắc thêm quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, vùng lãnh thổ, trong đó có 3 nước quan hệ đặc biệt, 9 nước đối tác chiến lược toàn diện, 19 nước đối tác chiến lược (bao gồm cả 9 nước đối tác chiến lược toàn diện) và 13 nước đối tác toàn diện, trong đó đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện hoặc đối tác chiến lược với tất cả 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam đã và đang thể hiện tốt vai trò là bạn, là đối tác tin cậy trong cộng đồng quốc tế; có nhiều sáng kiến, đề xuất, chủ động, tích cực tham gia có hiệu quả vào các hoạt động của ASEAN, tổ chức Liên hợp quốc và nhiều tổ chức quốc tế khác.

2. Sau giải phóng, là vùng đất đã trải qua hơn 20 năm du nhập lối sống Mỹ nên vấn đề tệ nạn xã hội ở Nam Bộ khá nan giải với số lượng lớn người thất nghiệp, thương, phế binh, người nhập cư, người nghiện ma túy, trẻ mồ côi, người ăn xin, cờ bạc buôn lậu… Khắc phục khó khăn để vươn lên cùng cả nước, sau 50 năm, Nam Bộ đã đạt được nhiều khởi sắc, cơ cấu kinh tế các vùng tiếp tục chuyển dịch tích cực; giá trị văn hóa các dân tộc được bảo tồn, kế thừa và phát huy, một số di tích văn hoá lịch sử được tu bổ, tôn tạo; hệ thống giáo dục, đào tạo được quan tâm đầu tư, mạng lưới y tế được củng cố; bảo vệ môi trường, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học và bảo vệ nguồn nước được chú trọng, quốc phòng - an ninh được giữ vững, đời sống Nhân dân ngày được nâng cao, trong đó tốc độ tăng trưởng GRDP các vùng của Nam Bộ những năm gần đây đạt mức khá.

Riêng với Thành phố Hồ Chí Minh, vinh dự mang tên Bác từ năm 1976,  Thành phố đã bứt phá mạnh mẽ, đạt được nhiều kết quả quan trọng, toàn diện trên các lĩnh vực. Đặc biệt, với quy mô và tiềm lực vượt trội, Thành phố Hồ Chí Minh đã cùng cả nước vượt qua nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, từng bước phát triển theo chiều sâu dựa trên nền tảng ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khoẻ Nhân dân, phát triển văn hoá, xã hội đạt nhiều kết quả quan trọng; đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân không ngừng nâng lên, sớm xác lập và giữ vững vai trò đầu tàu, trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước và ngày càng có vị trí quan trọng trong khu vực Đông Nam Á.

KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975 - 30/4/2025) (Phần 3)
Ngày đăng 17/04/2025 | 12:45  | Lượt truy cập: 45

III. Ý NGHĨA LỊCH SỬ, NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

1. Ý nghĩa lịch sử

Thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại nhất trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng và chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước mấy nghìn năm của dân tộc. Chúng ta đã hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang là giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc - kỷ nguyên của độc lập, thống nhất và cùng nhau xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây cũng là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới; góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động viên, khích lệ các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc, mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân mới trên toàn thế giới. Đánh giá về tầm vóc thắng lợi của sự kiện lịch sử này, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12/1976) khẳng định: Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và tính thời đại sâu sắc[1].

2. Nguyên nhân thắng lợi

Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bắt nguồn từ những nguyên nhân chủ yếu:

Một là, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Bác Hồ kính yêu với đường lối chính trị, quân sự, độc lập, tự chủ đúng đắn, sáng tạo, phương pháp đấu tranh linh hoạt, phù hợp với mỗi giai đoạn của cuộc kháng chiến.

Hai là, tinh thần chiến đấu kiên cường, anh dũng của quân và dân cả nước, đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, hy sinh, lập nên những chiến công oanh liệt, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.

Ba là, sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thống nhất ý chí và hành động; của lòng yêu nước nồng nàn - khát vọng hòa bình, độc lập, tự do và thống nhất đất nước của đồng bào ta.

Bốn là, lòng trung thành tuyệt đối và tinh thần quyết chiến, quyết thắng của các Lực lượng vũ trang nhân dân với sự chỉ huy thao lực của các vị Tướng lĩnh tài ba. 

Năm là, tình hữu nghị và sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn, hiệu quả của bạn bè quốc tế, của liên minh chiến đấu giữa ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, sự ủng hộ của nhân dân và các lực lượng yêu chuộng hoà bình, tiến bộ trên thế giới.

3. Bài học kinh nghiệm

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng giúp toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đúc kết những bài học kinh nghiệm quý báu, đó là: (1) Kiên định quyết tâm, quyết đánh, quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược; (2) Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ; (3) Nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân sáng tạo; (4) Tổ chức lực lượng cả nước đánh giặc; (5) Căn cứ địa cách mạng, hậu phương kháng chiến vững chắc; (6) Đoàn kết, liên minh với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia; (7) Đoàn kết quốc tế, phát huy sức mạnh của thời đại; (8) Bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người.

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, HN 2004, tập 37, tr457.

KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975 - 30/4/2025) (Phần 2)
Ngày đăng 17/04/2025 | 12:43  | Lượt truy cập: 38

II. CÁC GIAI ĐOẠN TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC CỦA DÂN TỘC

1. Giai đoạn từ tháng 7/1954 đến hết năm 1960

Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, việc ngừng bắn, tập kết, chuyển quân và chuyển giao khu vực được thi hành trong vòng 300 ngày, sau hai năm sẽ thực hiện tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Tuy nhiên, ngay từ những ngày đầu tiên, đế quốc Mỹ, thực dân Pháp và chính quyền Ngô Đình Diệm tìm mọi cách phá hoại việc thi hành Hiệp định, cố tình khiêu khích, trì hoãn việc ngừng bắn trên các chiến trường; dụ dỗ và cưỡng ép gần 1 triệu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam; tháo dỡ, mang đi hoặc phá hoại máy móc, dụng cụ, tài sản công cộng nhằm làm tê liệt, gây khó khăn cho ta trong việc tiếp quản vùng giải phóng ở miền Bắc; rải truyền đơn, tài liệu xuyên tạc chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhằm lung lạc quần chúng, gây hoang mang trong Nhân dân. Thông qua chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, Mỹ tập trung thực hiện chính sách "tố cộng, diệt cộng" đàn áp, khủng bố phong trào yêu nước, trả thù những người kháng chiến cũ, tiêu diệt cơ sở cách mạng ở miền Nam, ban hành Luật 10/59 biến miền Nam thành nhà tù, trại giam, trại tập trung, cách mạng miền Nam bị dìm trong biển máu.

Khi kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 mở rộng (tháng 7/1954) xác định “Đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới, và hiện đang trở thành kẻ thù chính trực tiếp của nhân dân Đông Dương”[1]. Trước tình thế mới, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bố trí một số cán bộ, đảng viên ở lại miền Nam để lãnh đạo phong trào đấu tranh, đồng thời thực hiện việc chuyển quân, đưa hàng vạn con em, chiến sĩ, đồng bào, cán bộ ở miền Nam ra Bắc học tập, nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ phục vụ xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cũng như chuẩn bị lực lượng cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam và tái thiết đất nước sau chiến tranh; lãnh đạo quân và dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam nhằm giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ.

Thực hiện nhiệm vụ trên, ở miền Bắc, Đảng ta tích cực chỉ đạo triển khai những biện pháp nhằm nhanh chóng ổn định, sớm tổ chức cuộc sống mới sau chiến tranh. Sau kế hoạch 3 năm (1955-1957) khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, kế hoạch 3 năm (1958-1960) cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững chắc cho đấu tranh thống nhất nước nhà, miền Bắc đã hoàn thành về cơ bản công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, căn bản xoá bỏ chế độ bóc lột, bước đầu xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Ở miền Nam, cuộc đấu tranh diễn ra vô cùng khó khăn, ác liệt, nhưng Nhân dân ta vẫn một lòng theo Đảng, kiên cường, bất khuất chống áp bức, khủng bố, bảo vệ lực lượng cách mạng. Tháng 01/1959, Nghị quyết Trung ương 15 ra đời, chủ trương chuyển cách mạng miền Nam từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, khởi nghĩa giành chính quyền về tay Nhân dân; phản ánh đúng xu thế tất yếu của lịch sử, đáp ứng kịp thời yêu cầu, nguyện vọng của quần chúng nhân dân, là ngọn lửa dấy lên cao trào Đồng khởi (1959-1960) làm xoay chuyển tình thế cách mạng miền Nam, mở đầu những thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

2. Giai đoạn từ năm 1961 đến giữa năm 1965

Đầu năm 1961, Tổng thống Mỹ Kennơđi chính thức thông qua chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, thực chất là “dùng người Việt đánh người Việt” với công thức: lực lượng ngụy Sài Gòn cộng vũ khí, trang bị và cố vấn Mỹ. Mỹ dùng quân đội ngụy tay sai làm công cụ tiến hành chiến tranh, càn quét dồn dân vào ấp chiến lược, đưa 10 triệu nông dân miền Nam vào các trại tập trung, “Ấp chiến lược”, tách lực lượng cách mạng ra khỏi Nhân dân.

Để đối phó với chiến lược mới của địch, ngày 31/01/1961, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị “về phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam”. Ngày 15/2/1961, các tổ chức vũ trang miền Nam đã thống nhất thành “Quân giải phóng miền Nam Việt Nam”. Ở miền Bắc, thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, các phong trào thi đua sôi nổi “Tất cả vì miền Nam ruột thịt” ở khắp các địa phương, các cấp, các ngành đã đưa cách mạng miền Bắc trở thành căn cứ địa vững chắc, không ngừng tăng cường chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam chuyển sang giai đoạn mới, từ khởi nghĩa từng phần lên chiến tranh cách mạng, kết hợp song song đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, đánh địch bằng cả quân sự và chính trị, kết hợp ba mũi giáp công, trên cả ba vùng chiến lược, làm phá sản chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ và tay sai.

Ngày 02/01/1963, chiến thắng Ấp Bắc (Mỹ Tho) đánh bại chiến thuật “trực thăng vận” và “thiết xa vận” của địch, với lực lượng đông hơn ta 10 lần, dấy lên phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công”. Từ năm 1964 - 1965, quân và dân ta trên chiến trường miền Nam liên tiếp mở các chiến dịch tiến công, bẻ gãy nhiều cuộc hành quân càn quét của địch, làm nên những chiến thắng oanh liệt, như: Bình Giã (2/12/1964 - 3/01/1965), Ba Gia (28/5 - 20/7/1965), Đồng Xoài (11/5 - 22/7/1965)...

Ngày 05/8/1964, Mỹ cho không quân đánh phá miền Bắc, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ra miền Bắc hòng ngăn chặn sự chi viện của “hậu phương lớn” miền Bắc cho “tiền tuyến lớn” miền Nam. Nhờ sự chuẩn bị từ trước, quân và dân ta đã kịp thời phát hiện, mưu trí, dũng cảm, đánh bại cuộc tiến công của địch.

Trước những thắng lợi vang dội của quân và dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đứng trước sự thất bại hoàn toàn, buộc đế quốc Mỹ phải ồ ạt đưa quân đội viễn chinh vào miền Nam Việt Nam để thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Từ đây, cách mạng miền Nam chuyển sang giai đoạn mới.

3. Giai đoạn từ giữa năm 1965 đến hết năm 1968

Chuyển sang chiến lược "Chiến tranh cục bộ", đế quốc Mỹ sử dụng quân đội Mỹ làm lực lượng cơ động chiến lược để tìm diệt bộ đội chủ lực ta; dùng chính quyền, quân đội ngụy Sài Gòn để bình định, kìm kẹp Nhân dân, âm mưu đánh bại cách mạng miền Nam trong vòng 25 đến 30 tháng (từ giữa năm 1965 đến hết năm 1967); đồng thời, đế quốc Mỹ đẩy mạnh chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân.

Ngày 20/7/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi cả nước, Người khẳng định quyết tâm của Nhân dân ta “dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn[2].               Ngày 17/7/1966, trong Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước, Người khẳng định “Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn[3].

Trên chiến trường miền Nam, quân và dân ta đã đánh thắng quân xâm lược Mỹ ngay từ những trận đầu khi chúng vừa đổ bộ vào. Tiếp theo những trận thắng oanh liệt ở Núi Thành, Vạn Tường, Plâyme, Bàu Bàng,… quân và dân ta lại đánh bại ba cuộc hành quân lớn của Mỹ vào miền Đông Nam Bộ, đánh thắng lớn ở các chiến trường Tây Nguyên, miền Tây khu V, Đường 9, đồng bằng Nam Bộ và các mục tiêu chủ yếu của Mỹ ở các thành phố lớn. Ở miền Bắc, quân dân ta tiếp tục đánh trả cuộc tiến công của Mỹ bằng không quân và hải quân, giành những thắng lợi lớn trên nhiều mặt, bảo đảm giao thông thông suốt, chi viện sức người, sức của ngày càng lớn cho miền Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân              Mậu Thân 1968 đã giáng một đòn quyết định vào chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Paris, mở ra cục diện mới vừa đánh vừa đàm.

  1. Giai đoạn từ năm 1969 đến năm 1973

Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ bị phá sản, chúng thi hành chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh", từng bước mở rộng chiến tranh sang Campuchia, Lào; thực hiện chiến tranh hủy diệt và nhiều âm mưu, thủ đoạn thâm độc nhằm giành dân, bóp nghẹt để làm suy yếu cuộc kháng chiến của Nhân dân ta trên cả hai miền Nam - Bắc. Quân và dân ta phối hợp với quân, dân Lào, Campuchia từng bước đánh bại chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" của Mỹ. Những thắng lợi của chiến tranh cách mạng ba nước Đông Dương trong hai năm 1970 - 1971 đã tạo thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta.

Nhờ chuẩn bị tốt lực lượng, nắm đúng thời cơ, quân và dân ta đã liên tiếp giành thắng lợi lớn trên chiến trường, nhất là cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai ra miền Bắc bằng máy bay B52 của Mỹ, làm nên chiến thắng oanh liệt “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”, thay đổi cục diện chiến trường, cục diện chiến tranh theo thế có lợi cho ta. Trong đàm phán, chúng ta cũng khôn khéo tiến công địch, phối hợp chặt chẽ giữa "đánh và đàm", buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris năm 1973 về kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam, rút hết quân Mỹ và quân các nước chư hầu Mỹ ra khỏi miền Nam nước ta, làm tương quan lực lượng thay đổi có lợi cho ta, tạo điều kiện cơ bản nhất để tiến tới “đánh cho ngụy nhào”, giành thắng lợi cuối cùng.

5. Giai đoạn từ cuối năm 1973 đến năm 1975

Sau khi ký Hiệp định Paris, mặc dù buộc phải rút hết quân nhưng đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục âm mưu dùng chính quyền, quân đội ngụy Sài Gòn làm công cụ chiến tranh. Mỹ tăng cường chi viện tiền của, vũ khí, phương tiện chiến tranh cho quân ngụy lấn đất, giành dân, khống chế Nhân dân, thực hiện các hoạt động ngoại giao xảo quyệt để ngăn chặn sự phát triển của cách mạng miền Nam. Đến tháng 5/1973, xu thế chống phá Hiệp định Paris của quân đội ngụy Sài Gòn ngày càng tăng.

Tháng 7/1973, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng đã họp Hội nghị lần thứ 21, ra Nghị quyết Về thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền nam trong giai đoạn mới, trong đó khẳng định               “Con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên”[4] và đề ra các nhiệm vụ lớn cho hai miền Nam - Bắc. Thắng lợi toàn Miền, nhất là của miền Đông Nam Bộ, đặc biệt là chiến thắng Phước Long cuối năm 1974 - đầu năm 1975 càng cho thấy thực tế suy yếu của quân ngụy Sài Gòn và khả năng Mỹ khó đưa quân trở lại Việt Nam. Đảng ta nhận định thời cơ giải phóng miền Nam đã đến, quyết định tiến hành mở cuộc tiến công chiến lược nhằm giải phóng hoàn toàn miền Nam, đồng thời tiến hành giành lại chủ quyền trên các vùng biển, đảo và quần đảo phía Nam của Tổ quốc.

Sau khi hoàn thành chuẩn bị chiến lược cả về thế và lực, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 được tiến hành từ ngày 4/3/1975 với các chiến dịch: Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng trận đột phá chiến lược đánh chiếm Buôn Ma Thuột, giải phóng Tây Nguyên; hai chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng Sài Gòn - Gia Định với nhiều bước phát triển nhảy vọt.

- Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (26/4 - 30/4/1975)

Sau một tháng Tổng tiến công và nổi dậy mạnh mẽ, liên tục, quân và dân ta đã giành được những thắng lợi to lớn, toàn diện cả về chính trị và quân sự. Trong khi đó, địch bị mất toàn bộ Quân khu 1, Quân khu 2, một nửa sinh lực của Quân đội Sài Gòn bị tiêu diệt, rơi vào tình thế đi đến tan rã hầu như không cứu vãn nổi. Chúng ra sức tổ chức lực lượng, tích cực phòng ngự, lấy việc bảo vệ Sài Gòn làm mục đích chiến lược để có thể làm điều kiện mặc cả đối với ta. Sau khi lần lượt tổ chức các tập đoàn phòng ngự từ xa nhưng đều bị ta đập tan; quân đội ngụy Sài Gòn tập trung xây dựng tuyến phòng thủ cuối cùng là Sài Gòn - Gia Định.

Từ nhận định dù Mỹ có chi viện cũng không cứu vãn được sự sụp đổ của quân ngụy, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Sài Gòn trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4/1975, trước mùa mưa, không thể để chậm. Ngày 07/4/1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh ra lệnh động viên “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ thời gian từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”[5]. Ngày 14/4/1975, theo đề nghị của Đảng ủy - Bộ Tư lệnh chiến dịch và Quân ủy Trung ương, Bộ Chính trị đồng ý chiến dịch giải phóng Sài Gòn lấy tên là “Chiến dịch Hồ Chí Minh”. Các lực lượng chiến lược của ta tham gia chiến dịch lịch sử gồm 4 quân đoàn (1,2,3,4) và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn), các đơn vị binh chủng tăng - thiết giáp, đặc công, công binh, thông tin, pháo binh, không quân, hải quân với đầy đủ binh khí kỹ thuật cùng các đơn vị biệt động, bộ đội địa phương, dân quân du kích chuẩn bị tiến về giải phóng Sài Gòn - Gia Định.

17 giờ ngày 26/4/1975, quân ta được lệnh tổng công kích; 5 cánh quân đồng loạt tiến công trên 5 hướng: Hướng Bắc - Quân đoàn 1 (Binh đoàn Quyết Thắng); hướng Tây Bắc - Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên); hướng Đông Nam - Quân đoàn 2 (Binh đoàn Hương Giang); hướng Đông - Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long); hướng Tây và Tây Nam - Đoàn 232 và Sư đoàn 8 (Quân khu 8), nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu trọng yếu của địch. Trước cuộc tiến công như vũ bão của quân và dân ta, 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, quân ta đánh chiếm Dinh Độc Lập, chính quyền ngụy Sài Gòn đầu hàng không điều kiện, cờ giải phóng phấp phới tung bay trên nóc tòa nhà chính của Dinh Độc Lập. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.

- Giành lại chủ quyền lãnh thổ trên các vùng biển, đảo, quần đảo phía Nam của Tổ quốc

Cùng với giải phóng trên đất liền, Bộ Tổng Tư lệnh ra lệnh nghiên cứu thời cơ để giành lại chủ quyền các đảo, quần đảo do quân đội ngụy Sài Gòn chiếm đóng ở biển Đông, đây là phần lãnh thổ rất quan trọng, có vị trí chiến lược về quân sự và kinh tế không thể tách rời của Tổ quốc. Ngày 14/4/1975, các đơn vị ta nổ súng tiến công các đảo thuộc vùng biển phía Nam của Tổ quốc, trong đó có quần đảo Trường Sa, giành lại chủ quyền các đảo vào ngày 29/4/1975.

Từ ngày 30/4 đến đầu tháng 5/1975, bộ đội chủ lực và các lực lượng vũ trang tiến công, kết hợp với sự nổi dậy của quần chúng nhân dân đã giải phóng hoàn toàn các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, vùng biển, giải phóng Côn Đảo, Phú Quốc và các đảo ở vùng biển Tây Nam Tổ quốc.

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, HN 2001, T15, tr225.

[2] Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 14 (1963-1965), tr 577.

[3] Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 15 (1966-1969), tr 131.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, HN 2004, tập 34, tr 661.

[5] Mệnh lệnh ngày 7/4/1975 của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Điện số 157-H-TK, số lưu 450/ĐB - Cục Cơ yếu, Bộ Tổng Tham mưu – Bộ Quốc phòng.

KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975 - 30/4/2025) (Phần 1)
Ngày đăng 17/04/2025 | 12:41  | Lượt truy cập: 45

I. BỐI CẢNH TÌNH HÌNH

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc Mỹ trở nên giàu có và hùng mạnh nhất thế giới tư bản, đứng ra giữ vai trò giám sát, can thiệp vào các vấn đề quốc tế để bảo vệ cho cả hệ thống đế quốc chủ nghĩa đã bị suy yếu nghiêm trọng và lâm vào khủng hoảng trước sự ra đời và lớn mạnh nhanh chóng của hệ thống xã hội chủ nghĩa với trụ cột là Liên Xô, Trung Quốc. Đây là nhân tố mới, làm thay đổi tương quan lực lượng toàn cầu, có lợi cho phong trào cách mạng thế giới; buộc Mỹ phải thực hiện chiến lược toàn cầu nhằm chống lại các trào lưu cách mạng, đàn áp và phá hoại phong trào độc lập dân tộc, ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa xã hội, đồng thời tranh giành vị trí và ảnh hưởng với các đế quốc khác.

Với vị trí chiến lược quan trọng trong khu vực Đông Nam Á và trước sự tiến công mạnh mẽ của cách mạng Việt Nam, ảnh hưởng sâu sắc đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, là ngọn cờ tiêu biểu cho sự kết hợp các trào lưu cách mạng của thời đại; đế quốc Mỹ xác định Việt Nam là điểm nóng bỏng nhất, có vị trí sống còn trong tuyến ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản nên đã tích cực can thiệp vào chiến tranh Đông Dương ngay từ đầu những năm 50 thế kỷ XX. Một mặt, Mỹ ra tay giúp Pháp, mặt khác âm mưu thay thế Pháp để độc chiếm Đông Dương. Sau khi thực dân Pháp thua trận, Mỹ đã vi phạm trắng trợn Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, vội vã lập ra khối quân sự Đông Nam Á và hất cẳng Pháp, xâm chiếm miền Nam hòng đánh bại cách mạng Việt Nam, nhằm lập phòng tuyến ngăn chặn và đẩy lùi chủ nghĩa xã hội ở vùng Đông Nam Á, bao vây, uy hiếp và chặn đứng bước tiến của chủ nghĩa xã hội ở các nơi trên thế giới.

Về phía ta, mục tiêu độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa, xây dựng cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc và phồn vinh là nguyện vọng thiêng liêng, là sự nghiệp chính nghĩa của toàn thể Nhân dân, cũng là mục tiêu cơ bản, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của việc kết nối cách mạng nước ta với cách mạng thế giới, trước hết là với các nước xã hội chủ nghĩa, ngày 14/01/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố với các nước trên thế giới: “Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hoà bình và xây đắp dân chủ thế giới”[1], từ đó Trung Quốc, Liên Xô và một loạt nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân đã ra tuyên bố công nhận Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thiết lập quan hệ ngoại giao, ủng hộ và viện trợ vật chất cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của Nhân dân ta.

Với thắng lợi qua các chiến dịch và Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 của quân và dân ta mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” ngày 7/5/1954 đã buộc thực dân Pháp ngồi vào bàn đàm phán, ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, rút quân khỏi nước ta, công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; tuy nhiên trong bối cảnh tình hình chính trị thế giới lúc bấy giờ, đất nước tạm thời bị chia cắt làm 2 miền, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới; miền Nam vẫn phải sống dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ. Với chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”, “Nam Bộ là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam”, toàn thể dân tộc Việt Nam trước sau như một đoàn kết đồng lòng, quyết đánh và quyết thắng đế quốc Mỹ trở thành tư tưởng lớn của thời đại, để hoàn thành cho kỳ được mục tiêu Tổ quốc thống nhất, đồng bào Nam - Bắc sum họp một nhà.

Chính vì vậy, “nước Việt Nam ta trở thành nơi tập trung các mâu thuẫn cơ bản của thế giới và cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta trở thành cuộc đọ sức điển hình, thành tiêu điểm của cuộc đấu tranh vô cùng quyết liệt giữa cách mạng và phản cách mạng trên thế giới, là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc mang tính chất thời đại rất sâu sắc”[2]. Đó là nguồn gốc sâu xa, là nguyên nhân trực tiếp và cũng là bản chất của cuộc chiến tranh giữa nhân dân Việt Nam với đế quốc Mỹ xâm lược.

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, H 2011, tập 6 (1949-1950), tr 311.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị quốc gia ST, HN 2004, T34, tr 642.

Kỷ niệm 79 năm Ngày Hợp tác xã Việt Nam
Ngày đăng 11/04/2025 | 07:10  | Lượt truy cập: 103

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ VÀ LIÊN MINH HỢP TÁC XÃ VIỆT NAM

I. Lịch sử hình thành và phát triển khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã ở Việt Nam

1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1955: Thực hiện tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí minh, hợp tác xã được hình thành và phát triển ở nhiều vùng tự do và căn cứ địa cách mạng với các hình thức hợp tác giản đơn như tổ vần công, tổ đổi công. Ngày 08 tháng 3 năm 1948, tại Chiến khu Việt Bắc, Hợp tác xã thuỷ tinh Dân Chủ được thành lập, mở đầu cho sự ra đời và phát triển của khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã ở Việt Nam. Sự phát triển của kinh tế tập thể, hợp tác xã cùng với kết quả của cải cách ruộng đất đã góp phần giải phóng nông dân thoát khỏi sự ràng buộc của phương thức sản xuất phong kiến, đưa nông dân lên vị trí người làm chủ, có những đóng góp tích cực trong việc đảm bảo hậu cần cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, động viên sức người, sức của cho tiền tuyến.

2. Giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1961: Ngay sau khi miền Bắc được giải phóng, Đảng, Nhà nước ta đã chú trọng chỉ đạo xây dựng, phát triển hợp tác xã trong các ngành kinh tế. Chỉ trong một thời gian ngắn, sau giai đoạn thí điểm, đến năm 1960 cả nước đã có hơn 50.000 hợp tác xã được thành lập trong các ngành, lĩnh vực: nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, ngư nghiệp, tín dụng, ... thu hút đại bộ phận hộ nông dân, hộ kinh tế cá thể và người lao động tham gia. Các hợp tác xã góp phần to lớn vào công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển với tốc độ cao, hình thành quan hệ sản xuất mới, khai thác và sử dụng có hiệu quả hơn tư liệu sản xuất, đất đai và sức lao động; đưa những hộ nông dân, những người sản xuất nhỏ, thợ thủ công, tiểu thương vào làm ăn hợp tác trong các hợp tác xã theo đường lối của Đảng, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc cải tạo Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

3. Giai đoạn từ năm 1961 đến năm 1965: Khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã tiếp tục được đẩy mạnh. Cùng với việc thực hiện cuộc vận động cải tiến quản lý, xây dựng các hợp tác xã bậc cao với quy mô được mở rộng trong lĩnh vực nông nghiệp, hàng ngàn hợp tác xã trong các lĩnh vực phi nông nghiệp được thành lập, thu hút hàng triệu quần chúng nhân dân tham gia. Hợp tác xã trong các ngành, lĩnh vực ngoài những đóng góp đáng kể về kinh tế, còn có vai trò quan trọng về mặt xã hội, như giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động, hỗ trợ các hộ xã viên phát triển sản xuất, ổn định và cải thiện đời sống. Các hợp tác xã còn chú trọng giáo dục tinh thần yêu Nước, yêu Chủ nghĩa xã hội, nâng cao giác ngộ chính trị cho đông đảo quần chúng lao động; đồng thời là nơi đào tạo đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm thực tiễn để bổ sung cán bộ cho địa phương.

4. Giai đoạn từ năm 1965 đến năm 1975: Khi Đế quốc Mỹ đưa máy bay ra ném bom phá hoại miền Bắc, quy mô chiến tranh mở rộng. Với khẩu hiệu “tất cả để chiến thắng”, “tất cả để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước”, “vì miền Nam ruột thịt”, ... khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã được củng cố, phát triển và trở thành một lực lượng kinh tế quan trọng trong nền kinh tế của hậu phương lớn miền Bắc. Đến cuối năm 1974, toàn miền Bắc có hơn 46.000 hợp tác xã trong các ngành, lĩnh vực. Các hợp tác xã đã động viên được sự lao động quên mình của các xã viên hợp tác xã, vừa sản xuất vừa chiến đấu, với khẩu hiệu “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “tay cày tay súng”, vừa sản xuất nhiều lương thực, thực phẩm, hàng hoá tiêu dùng chi viện cho miền Nam, vừa tổ chức các đơn vị tự vệ, tham gia chiến đấu, đánh trả máy bay địch, bảo vệ quê hương. Nhờ có hợp tác xã, chúng ta đã huy động cao độ được sức người, sức của cho tiền tuyến, hàng triệu thanh niên trai tráng nông thôn ra mặt trận, đánh giặc cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Các hợp tác xã còn làm nòng cốt trong cuộc vận động toàn dân thực hiện công tác hậu phương quân đội, trực tiếp chăm sóc gia đình thương binh, liệt sỹ; tiếp nhận các chiến sĩ, thương bệnh binh từ mặt trận về tham gia sản xuất. Các hợp tác xã còn là nơi giáo dục, nâng cao ý thức chính trị cho quần chúng nhân dân, xây dựng nếp sống văn hoá, đề cao tình làng nghĩa xóm, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, đóng góp tích cực vào những thành tựu của cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá ở nông thôn.

5. Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1997: Sau chiến thắng lịch sử Mùa Xuân năm 1975, kinh tế tập thể, hợp tác xã được phát triển và lan rộng tới các tỉnh, thành phố phía Nam. Đến năm 1986, khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã phát triển cao nhất so với trước đây , cả nước có 76.000 hợp tác xã trong các ngành, lĩnh vực kinh tế, thu hút hơn 20 triệu xã viên tham gia và có những đóng góp to lớn như: Các hợp tác xã nông nghiệp sản xuất hơn 80% sản lượng lương thực, thực phẩm của cả nước; Các hợp tác xã công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sản xuất ra một khối lượng hàng hoá chiếm 30% giá trị sản lượng công nghiệp toàn quốc và gần 50% giá trị sản lượng công nghiệp địa phương; Các hợp tác xã mua bán đã chiếm gần 20% tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ của thị trường xã hội và đại lý thu mua uỷ thác hơn 60% sản lượng hàng hoá nông sản, thực phẩm cho cả nước; Các hợp tác xã vận tải vận chuyển hơn 45% khối lượng hàng hoá và 50% khối lượng hành khách vận chuyển của các địa phương, ...

Tuy nhiên, khi cơ chế quản lý tập trung bao cấp được xoá bỏ, cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước từng bước được hình thành và điều tiết các quan hệ kinh tế; phần lớn các hợp tác xã trong các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế không kịp thích ứng, rơi vào tình trạng khó khăn, lúng túng, nhiều hợp tác xã sản xuất kinh doanh thua lỗ bị tan rã, giải thể, số lượng hợp tác xã giảm mạnh.

6. Giai đoạn từ năm 1997 trở lại đây: Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã đã có những chuyển biến quan trọng. Đặc biệt, kể từ khi Luật Hợp tác xã đầu tiên ra đời (tháng 3/1996) và chính thức có hiệu lực từ 01/01/1997 và tiếp đó là Luật Hợp tác xã 2003 và Luật Hợp tác xã năm 2012 đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi hơn cho khu vực hợp tác xã phát triển. Đảng có Nghị quyết chuyên đề về kinh tế tập thể, hợp tác xã (Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về “Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể” ), nhiều kết luận, chỉ thị về kinh tế tập thể, hợp tác xã,... Các hợp tác xã từng bước chuyển đổi và đăng ký lại cho phù hợp và thích ứng ngày càng tốt hơn với sự biến động của cơ chế thị trường; quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất trong các hợp tác xã được tăng cường; vai trò tự chủ của hợp tác xã được đề cao, thành viên tham gia hợp tác xã một cách tự nguyện, nhiều hợp tác xã đã xây dựng được phương án hoạt động phù hợp, huy động được sự tham gia đóng góp của thành viên; mô hình hợp tác xã mới, mô hình hợp tác xã phát triển sản xuất kinh doanh gắn với chuỗi giá trị được hình thành đã góp phần bảo đảm an sinh xã hội, ổn định chính trị cơ sở và đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhiều hợp tác xã mới được thành lập trong các ngành, lĩnh vực kinh tế với các hình thức tổ chức và phương thức hoạt động đa dạng. Nhiều hợp tác xã, thành viên tham gia không chỉ bao gồm cá nhân mà còn gồm các chủ trang trại, hộ tiểu chủ, nhà khoa học, các cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ và vừa, một số hợp tác xã có cả thành viên là doanh nghiệp Nhà nước tham gia. Trong các hợp tác xã mới thành lập có nhiều mô hình hợp tác xã mới như hợp tác xã y tế, hợp tác xã vệ sinh môi trường, hợp tác xã nước sạch, hợp tác xã dịch vụ tang lễ, ...

Năm 2021, kinh tế tập thể, hợp tác xã tiếp tục phát triển cả về số lượng và chất lượng, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, góp phần ổn định giá cả và kiềm chế lạm phát, tăng kim ngạch xuất khẩu, tái cơ cấu nền kinh tế, nhất là kinh tế nông nghiệp, nông thôn; xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, nhất là địa bàn dân tộc thiểu số và miền núi; nâng cao nhận thức của xã hội và hệ thống chính trị đối với hợp tác xã kiểu mới. Tính đến 31/12/2021, cả nước có 27.394 hợp tác xã, tăng 2.283 hợp tác xã so với cùng kỳ năm 2020; 108 liên hiệp hợp tác xã, 119.710 tổ hợp tác. Trong đó có 18.146 hợp tác xã nông nghiệp, 2.078 hợp tác xã thương mại và dịch vụ, 1.632 hợp tác xã vận tải, 2.446 hợp tác xã công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, 850 hợp tác xã xây dựng, 523 hợp tác xã môi trường, 538 hợp tác xã khác, 1.181 Quỹ tín dụng nhân dân. Khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã thu hút hơn 8 triệu thành viên, 2,5 triệu lao động tham gia, tăng 23,453 thành viên (đại diện hộ gia đình) so với năm 2020, trung bình 260 thành viên/HTX; thu nhập bình quân đạt 47,5 triệu đồng/năm/lao động; tổng vốn điều lệ HTX đạt gần 50 tỷ đồng, tổng tài sản đạt 184 nghìn tỷ, hơn 40% HTX hoạt động có hiệu quả.

II. Lịch sự hình thành và phát triển của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam

Cùng với quá trình hình thành và phát triển phong trào hợp tác xã ở Việt Nam, các tổ chức đại diện và hỗ trợ cho khu vực hợp tác xã lần lượt được thành lập, đáp ứng yêu cầu tư vấn, hỗ trợ cho các hợp tác xã phát triển theo chủ trương của Đảng, Nhà nước. Năm 1955, Ban quản lý hợp tác xã mua bán Việt Nam được thành lập với nhiệm vụ đại diện và hỗ trợ cho các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã mua bán trong phạm vi toàn quốc. Năm 1978, Liên hiệp hợp tác xã tiểu - thủ công nghiệp Trung ương (gọi tắt là Liên hiệp xã Trung ương) được thành lập với nhiệm vụ đại diện và hỗ trợ cho các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tiểu - thủ công nghiệp cả nước.

Năm 1990, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng có Quyết định số 81-CT giải thể Liên hiệp xã Trung ương và Quyết định số 82-CT thành lập Ban trù bị Đại hội thành lập Hội đồng Trung ương các Hợp tác xã và các đơn vị sản xuất ngoài quốc doanh. Năm 1991, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng có quyết định số 409-CT thành lập Hội đồng Trung ương lâm thời các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, thành viên bao gồm tất cả các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh đang hoạt động trên tất cả các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế Việt Nam. Năm 1993, được sự đồng ý của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chính phủ, trong 02 ngày, 29 và 30 tháng 10 năm 1993, Đại hội đại biểu toàn quốc các Hợp tác xã Việt Nam lần thứ nhất thành lập Hội đồng Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, có chức năng, nhiệm vụ đại diện và hỗ trợ cho tất cả các hợp tác xã hoạt động ở các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân.

Đến nay, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đã trải qua 06 kỳ Đại hội. Mỗi kỳ Đại hội là một mốc son đánh dấu sự phát triển về tổ chức và hoạt động của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam gắn với quá trình củng cố, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, hợp tác xã theo chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Tổ chức của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam được kiện toàn từ Trung ương đến tất cả 63 tỉnh, thành phố trong cả nước. Đặc biệt, việc tổ chức thành công Đại hội Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và cấp tỉnh nhiệm kỳ 2020 - 2025 là dấu mốc lịch sử trong tổ chức và hoạt động của hệ thống Liên minh Hợp tác xã Việt Nam - Sau 27 năm thành lập và phát triển, lần đầu tiên hệ thống Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đã thống nhất nhiệm kỳ Đại hội và thống nhất Điều lệ về nội dung, hình thức và hiệu lực.

Năm 2021, năm thứ hai triển khai Nghị quyết Đại hội Liên minh HTX Việt Nam nhiệm kỳ 2020 - 2025, trong điều kiện còn nhiều khó khăn, thách thức, dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, gây hậu quả nặng nề, song hoạt động của hệ thống Liên minh Hợp tác xã Việt Nam có những chuyển biến tích cực, bám sát Điều lệ được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, chức năng, nhiệm vụ để tổ chức các hoạt động, không ngừng nâng cao hiệu quả, từng bước đáp ứng yêu cầu của các hợp tác xã và thành viên; tiếp tục giữ vai trò nòng cốt trong phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã; vị thế, uy tín của hệ thống Liên minh Hợp tác xã Việt Nam ở trong nước và các tổ chức quốc tế tiếp tục được nâng cao. Kết quả nổi bật:

1. Hệ thống Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đã tổ chức triển khai kịp thời, sáng tạo các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, cấp ủy đảng, chính quyền địa phương về phát triển kinh tế - xã hội, Nghị quyết Đại hội của hệ thống Liên minh HTX Việt Nam nhiệm kỳ 2020 - 2025; Nghị quyết số 88/NQ-LMHTXVN ngày 22/3/2021 của Ban Chấp hành Liên minh HTX Việt Nam; phối hợp với Bộ Nội vụ trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1328/QĐ-TTg ngày 23/7/2021 phê duyệt Điều lệ Liên minh HTX Việt Nam và tổ chức triển khai thực hiện trong toàn hệ thống.

2. Tập hợp ý kiến, nguyện vọng của HTX để kiến nghị, đề xuất với cấp ủy, chính quyền địa phương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chính phủ, Quốc hội các biện pháp, chính sách hỗ trợ HTX giảm thiểu thiệt hại và khắc phục khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19; triển khai chiến lược phát triển KTTT, HTX giai đoạn 2021 - 2030, kế hoạch giai đoạn 2021 - 2025; tham gia hoàn thiện, triển khai các chính sách hỗ trợ vốn tín dụng, xúc tiến thương mại, đào tạo, khoa học công nghệ; thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ do Ban chỉ đạo Trung ương phân công về Tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2003 về KTTT, HTX, Tổng kết 15 năm Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Tổng kết 10 năm Nghị quyết 19-NQ/TW ngày 31/10/2012 về đất đai, Tổng kết 10 năm thi hành Luật HTX năm 2012; tích cực thực hiện các nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo Đổi mới phát triển KTTT, HTX, Chương trình nông thôn mới, Chương trình giảm nghèo bền vũng, hội đồng tiền lương quốc gia, Hội đồng bảo hiểm xã hội Việt Nam và đối tác 3 bên của Tổ chức lao động quốc tế (ILO).

3. Đổi mới công tác tuyên truyền, phối hợp với các cơ quan báo chí trung ương và địa phương, đa dạng hóa hình thức tuyên truyền; đăng tải 29.056 tin, bài, 6.290 ảnh, 181 video, phát hành 2.951 tài liệu, sổ tay tuyên truyền, tổ chức 396 hội nghị, tập huấn tuyên truyền về KTTT, HTX cho cán bộ, viên chức của sở, ngành, huyện, cán bộ và thành viên HTX, người dân; triển khai các phong trào thi đua; đề án ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số và cổng thông tin tri thức HTX, phần mềm quản lý văn bản điều hành của Liên minh HTX Việt Nam với trục liên thông văn bản quốc gia.

4. Thực hiện tốt chức năng đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho các HTX; đổi mới công tác hướng dẫn, tư vấn và xử lý đơn thư khiếu nại liên quan đến đất đai, tài sản; hỗ trợ, cung ứng dịch vụ cho HTX về xúc tiến thương mại, tín dụng, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, tiếp thị, sản xuất theo chuỗi giá trị, đào tạo và bồi dưỡng nhân lực, chuyển giao khoa học công nghệ, xây dựng thương hiệu hàng hóa, duy trì sản xuất, kinh doanh. Từ tháng 8/2021 đến nay, hệ thống Liên minh HTX Việt Nam triển khai Chương trình số 503/CTr-LMHTXVN về kết nối cung - cầu, tiêu thụ hàng hóa cho HTX, chủ yếu là lương thực, thực phẩm, với 240.000 tấn nông sản và hàng ngàn đơn vị sản phẩm khác, giá trị gần 7.600 tỷ đồng qua cổng Thông tin điện tử kết nối cung - cầu (B2B) của Liên minh HTX Việt Nam.

5. Tiếp tục kiện toàn tổ chức, tăng cường liên kết hệ thống Liên minh HTX Việt Nam; rà soát, hoàn thiện các quy chế, quy trình công tác; tăng cường kỷ cương hiệu quả trong công tác thông tin báo cáo; đổi mới lề lối làm việc, tổ chức họp, làm việc trực tuyến, bảo đảm thực hiện tốt các nhiệm vụ và quy định về phòng, chống dịch; chủ động, tích cực đề xuất với bộ, ngành, cấp ủy, chính quyền địa phương về giải pháp hỗ trợ phát triển KTTT, HTX trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp; hỗ trợ THT, HTX, liên hiệp HTX sản xuất an toàn, linh hoạt, thích ứng với diễn biến của dịch bệnh...

Với những thành tích đóng góp to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hệ thống Liên minh HTX Việt Nam và các thành viên đã được Đảng, Nhà nước, Chính phủ trao tặng nhiều danh hiệu, phần thưởng cao quý: Huân chương Lao động hạng Nhất năm 2005, Huân chương Hồ Chí Minh năm 2007, Cờ Thi đua của Chính phủ năm 2007, Huân chương Độc lập hạng Ba năm 2010, Huân chương Lao động hạng Nhất năm 2018, Huân chương Lao động hạng Ba năm 2019, Huân chương Độc lập hạng Nhì năm 2020; Huân chương Lao động hạng Nhất năm 2021; nhiều tập thể và cá nhân được phong tặng danh hiệu “Anh hùng lao động”; nhiều Liên minh HTX tỉnh, thành phố, thành viên, tập thể và cá nhân được tặng Huân chương các hạng, cờ thi đua của Chính phủ, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Bằng khen của các ban, bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố và danh hiệu thi đua khác,...

III. Ý nghĩa ngày Hợp tác xã Việt Nam -11/4

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên đưa tư tưởng Hợp tác xã vào Việt Nam. Ngay từ khi còn đang bôn ba tìm đường cứu nước, Người đã quan tâm đến tổ chức kinh tế tập thể, hợp tác xã. Trong cuốn “Đường cách mệnh” viết năm 1927, sau khi phân tích những lợi ích của hợp tác xã, Người đã nhấn mạnh: Tục ngữ Việt Nam có câu “Nhóm lại thành giàu, chia nhau thành khó” và “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại thành hòn núi cao”, lý luận hợp tác xã đều nằm trong điều ấy. Người còn nói về tính chất hợp tác xã là tổ chức kinh tế - xã hội; cách tổ chức hợp tác xã phải dựa trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi và đi từ thấp đến cao.

Ngay sau Cách mạng Tháng 8 thành công năm 1945, ngày 11 tháng 4 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư kêu gọi điền chủ, nông gia Việt Nam tham gia Hợp tác xã nông nghiệp. Trong thư Bác Hồ đã viết: “Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp, nền kinh tế lấy canh nông làm gốc... nông dân giàu thì nước ta giàu, nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”; “nông dân muốn giàu, nông nghiệp muốn thịnh thì cần phải có Hợp tác xã”; “... Hợp tác xã là hợp vốn, hợp sức với nhau. Vốn nhiều, sức mạnh, thì khó nhọc ít mà lợi ích nhiều” . Trong thư Người còn viết: “ Hợp tác xã nông nghiệp là một tổ chức có lợi to cho nhà nông. Nó là cách tranh đấu kinh tế có hiệu quả nhất, để giúp vào việc xây dựng nước nhà. Hợp tác xã nông nghiệp là một cách làm cho nhà nông đoàn kết, làm cho nhà nông thịnh vượng. Hợp tác xã nông nghiệp giúp cho nhà nông đạt đến mục đích, đã ích quốc lại lợi dân”. Người tha thiết kêu gọi: “Hỡi đồng bào điền chủ nông gia, anh em ta ai chẳng mong được đầy đủ, giàu có, ai chẳng mong cho nước thịnh dân cường. Vậy chúng ta hãy mau mau chung vốn góp sức, lập nên Hợp tác xã nông nghiệp ở khắp nơi; từ làng mạc cho đến tỉnh thành đâu đâu cũng phải có Hợp tác xã”.

Sau 19 năm, cũng vào ngày (11 tháng 4 năm 1964), Bác Hồ gửi thư­ cho Đại hội Hợp tác xã và đội sản xuất nông nghiệp tiên tiến miền núi và trung du, khen ngợi những Hợp tác xã điển hình tiên tiến, và yêu cầu các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo các Hợp tác xã nông nghiệp phát triển.

Với ý nghĩa của ngày 11 tháng 4, ngày đánh dấu 02 sự kiện quan trọng đối với phong trào Hợp tác xã của Việt Nam, Ban chấp hành Liên minh Hợp tác xã Việt Nam khóa IV, nhiệm kỳ 2010 - 2015 thống nhất trình và đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý lấy ngày 11 tháng 4 hàng năm là Ngày Hợp tác xã Việt Nam (Quyết định số 1268/QĐ-TTg ngày 27 tháng 7 năm 2011).